Hình thành trên nền tảng tình hữu nghị và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Singapore, qua 26 năm phát triển, từ Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore 1 (KCN VSIP 1) ở tỉnh Bình Dương vào năm 1996, đến nay VSIP Group đã có 11 dự án tại nhiều tỉnh, thành thu hút đầu tư rất hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển
Đại diện các tổ chức tham gia buổi đối thoại "Làm thế nào để các doanh nghiệp có thể nâng cao kỹ năng làm việc cho lao động trẻ". Tại buổi đối thoại, Tổng Thư ký VCCI Trần Thị Lan Anh cho biết, năng suất lao động Việt Nam trong những năm qua đã có sự cải thiện
Giải pháp cho bức tranh tiêu dùng bền vững của Unilever Việt Nam. Tin tức | 24/09/2022 CÔNG TY CỔ PHẦN CHĂN NUÔI C.P. VIỆT NAM THU GOM RÁC THẢI BIỂN GÓP PHẦN BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BỀN VỮNG. Hội đồng Doanh nghiệp vì sự Phát triển Bền vững Việt Nam.
Doanh nghiệp số - doanh nhân số: Xu thế phát triển tất yếu của đất nước và thời đại. (VietQ.vn) - Hưởng ứng ngày Chuyển đổi số quốc gia lần thứ nhất (10/10/2022) và kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam lần thứ 18 (13/10/2004 - 13/10/2022), sáng 8/10, Tạp chí Việt Nam hội
Hoạt động của các doanh nghiệp xã hội trong lĩnh vực du lịch cộng đồng tại Việt Nam hiện nay có hiệu quả hay không, bài viết sẽ phân tích thực trạng phát triển của loại hình doanh nghiệp này trong lĩnh vực du lịch cộng đồng với các tiêu chí: Số lượng, quy mô, hiệu quả, tác động xã hội…
Fast Money. Các doanh nghiệp việt nam là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều về chủ đề các doanh nghiệp việt nam. Trong bài viết này, sẽ viết bài viết Tổng hợp các doanh nghiệp việt nam sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước đoàn nghiệp Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di nghiệp Cổ phần Vàng bạc Đá quý & Đầu tư dịch vụ thương mại nghiệp ôtô Trường Hải THACO ty cổ phần tập đoàn Hòa đoàn lớn Điện lực Việt đoàn lớn Dầu khí Việt ty Cổ phần Sữa Việt nghiệp Cổ phần Hàng không hàng TMCP Việt Nam Thịnh đoàn VingroupTrên tinh thần phát triển bền vững và chuyên nghiệp, Vingroup đã tập trung phát triển hệ sinh thái gồm 6 lĩnh vực cốt lõi Bất Động Sản Vinhomes; Vincom Office; bán nhỏ lẻ Vincom, VinMart, VinFashion VinDS, VinPro; Du lịch nghỉ dưỡng – vui chơi giải trí Vinpearl và Vinpearl Land; Y tế với thương hiệu Vinmec; Giáo dục với tên thương hiệu Vinschool và Nông nghiệp với Brand Name chuyên môn BĐS, Vingroup là một trong những nhà phát triển tiên quyết với những công trình kiểu mẫu Vinhomes Riverside, Royal City, Times City… Vingroup và những khu đô thị do Vingroup phát triển liên tục giành được những giải thưởng Bất Động Sản quốc tế danh giá như “Chủ đầu tư tốt nhất – Best Developer”; “Dự án biệt thự tốt nhất – Best Villa Development”; “Dự án căn hộ tốt nhất – Best Condo Development”; “Dự án phức hợp được nhận xét cao – Best mixed-use Development”,…Bên cạnh việc kiến tạo những công trình mang dấu ấn thời đại, Vingroup còn là thành tố đem đến sự thay đổi tư tưởng và làm ra tiêu chuẩn sống mới cho người tin chi tiếtĐịa chỉ Số 7 Đường Bằng Lăng 1, Phường Việt Hưng, Quận Long Biên, Hà NộiHotline +84 24 3974 9999Facebook đoàn lớn nghiệp Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di Độngdoanh nghiệp Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di Động MWG là cửa hàng bán lẻ số 1 Việt Nam về thu nhập do việc kinh doanh đưa lại và tiền lãi, với mạng lưới hơn 2200 shop hàng trên toàn quốc. MWG vận hành những chuỗi kinh doanh nhỏ lẻ Điện Máy Xanh, Bách Hoá Xanh. ngoài ra, MWG còn mở rộng ra thương trường nước ngoài với chuỗi kinh doanh nhỏ lẻ thiết bị di động Bigphone tại tập trung xây dựng dịch vụ khách hàng khác biệt với chất lượng vượt trội, thực sự phù hợp với văn hoá đặt quý khách hàng thực hiện trung tâm trong mọi suy nghĩ và hành động của doanh nghiệp. MWG liên tục cải thiện mang đến cho người tiêu dùng kinh nghiệm thú vị và hài lòng nhất dựa trên nền tảng văn hóa đặt khách hàng thực hiện trọng tâm và Integrity. MWG mang đến cuộc sống sung túc cho nhân viên, lời so với vốn cao cho nhà đầu tư nhiều thời gian và đóng góp phúc lợi cho cộng trị cốt lõi của nhân viêntận tâm với người tiêu dùnglàm đúng khẳng định và nhận trách nhiệmYêu thương và hỗ trợ đồng độiTrung trực về tiền bạc và các sự liên quanMáu lửa trong công việcThông tin chi tiếtĐịa chỉ Lô đường D1, Khu Công Nghệ Cao, Phường Tân Phú, quận 9, 028 3812 5960E-mail investor ty Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di Độngdoanh nghiệp Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di nghiệp Cổ phần Vàng bạc Đá quý & Đầu tư dịch vụ thương mại DOJItập đoàn lớn DOJI đã tạo một dấu ấn mạnh mẽ trong xã hội doanh nghiệp Việt Nam nói chung và trong chuyên môn Vàng bạc Đá quý nói riêng với tốc độ tăng trưởng thu nhập do việc kinh doanh đưa lại ấn tượng và giá trị thương hiệu ngày càng lớn mạnh. Chiếm lĩnh thị trường nội địa với hệ thống kinh doanh Vàng miếng, phân phối Kim cương và Trang sức cao cấp khắp ba miền Bắc – Trung – Nam, tên thương hiệu DOJI đang bước đi vững chãi trong lộ trình chinh phục khách hàng bằng uy tín và chất lượng sản chú trọng đầu tư thiết bị, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại, phương án marketing bài bản, tập đoàn lớn DOJI thể hiện nhiều lợi thế cạnh tranh so với các hàng hóa cùng phân khúc và khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực bản lề là Vàng bạc Đá quý và Trang sức. Với tầm nhìn chiến lược, ý kiến phát triển bền vững, tiềm lực hùng mạnh, tập đoàn DOJI cam kết đẳng cấp và sang trọng Brand Name quốc gia Việt Nam, sẵn sàng tâm thế hội nhập và vươn xa trong khu vực cũng như quốc tế trong tương tin chi tiếtTrụ sở chính Tòa nhà DOJI Tower, 5 Lê Duẩn, Ba Đình, Hà NộiHotline +84 24 3366 2288Website nghiệp Cổ phần Vàng bạc Đá quý & Đầu tư dịch vụ thương mại nghiệp ôtô Trường Hải THACOSau nhiều năm ra đời và phát triển, THACO đã trở thành tập đoàn lớn công nghiệp đa nghề, trong đó Cơ khí và Ô tô là chủ lực, đồng thời phát triển các chuyên môn sản xuất giao thương bổ trợ cho nhau, làm ra giá trị cộng hưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh, bao gồm Nông nghiệp; Đầu tư xây dựng; Logistics và thương Mại & Dịch là công ty bậc nhất và có quy mô lớn nhất tại Việt Nam về lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô, với chuỗi giá trị từ nghiên cứu phát triển hàng hóa R&D, sản xuất linh kiện món phụ, lắp ráp ô tô, đến giao nhận vận chuyển và phân phối, bán nhỏ lẻ. sản phẩm có đủ đầy những chủng loại xe tải, xe bus, xe du lịch, xe chuyên dụng và đủ đầy phân khúc từ trung cấp đến tầm cao cấp với doanh số và thị phần luôn dẫn đầu thị trường Việt Nam trong nhiều năm cạnh hoạt động sản xuất buôn bán, THACO còn xây dựng môi trường văn hóa công ty lành mạnh, định hình được bản sắc văn hóa riêng của THACO dựa trên triết lý kinh doanh “Mang lại giá trị cho người tiêu dùng, xã hội và có đóng góp thiết thực vào nền kinh tế đất nước” và nguyên tắc “8 chữ T tận tụy – Trung Thực – Trí Tuệ – tự tin – Tôn Trọng – Trung Tín – Tận Tình – Thuận Tiện”. Đây chính là đáng giá cốt lõi của văn hóa THACO, là tài sản vô hình để làm ra động lực khuyến khích sự phát tin chi tiếtTrụ sở chính Tầng 18 Tòa nhà Sofic, số 10 đường Mai Chí Thọ, Thiêm, quận 2, Tp. Hồ Chí MinhHotline +84-0 rep-office nghiệp ôtô Trường Hải THACOcông ty ôtô Trường Hải THACO ty cổ phần tập đoàn Hòa PhátHòa Phát được biết đến không chỉ là một tập đoàn lớn kinh tế tư nhân đa nghành với thu nhập do việc kinh doanh đưa lại hàng trăm triệu đô la năm, mà Hòa Phát còn được nhận định cao bởi sự mạnh dạn trong đầu tư sản xuất, xây dựng và phát triển những mặt hàng mới toanh. 1 trong các điểm mạnh và cũng là thành tố quan trọng mang lại sự thành công cho tập đoàn lớn Hòa Phát ngày hôm nay là kinh nghiệm điều hành và sự đoàn kết của ban lãnh đạo tập đoàn cũng như tất cả công ty thành viên trong tập đoàn lớn. Từ doanh nghiệp trước tiên mang tên thương hiệu Hòa Phát ra đời là doanh nghiệp Thiết bị phụ tùng Hòa Phát cho đến những doanh nghiệp được hình thành sau này, quá trình thành lập và hoạt động và phát triển của tập đoàn lớn Hòa Phát luôn gắn liền với các cổ đông thành lập của Hòa đoàn Hòa Phát hoạt động chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực Sắt thép xây dựng, ống thép và tôn mạ; các công việc điện lạnh, nội thất, máy móc thiết bị; BĐS Nhà Đất, gồm Bất Động Sản Nhà Đất Khu công nghiệp, Bất Động Sản Nhà Đất nhà ở; chuyên môn nông nghiệp gồm sản xuất đồ ăn chăn nuôi và chăn nuôi. Đến lúc hiện tại, sản xuất sắt thép là chuyên môn sản xuất cốt lõi chiếm tỷ trọng trên 80% thu nhập do việc kinh doanh đưa lại và lời so với vốn toàn tập đoàn tin chi tiếtTrụ sở chính 66 Nguyễn Du, Du, Bà Trưng, Hà NộiHotline 48 666Website nghiệp cổ phần tập đoàn lớn Hòa đoàn lớn Điện lực Việt Namtập đoàn lớn Điện lực Việt Nam được thành lập với sứ mệnh chắc chắn cung cấp kịp thời và đủ sản lượng điện theo ý muốn của Hệ thống điện quốc gia với chất lượng điện năng và độ ổn định cao; nâng cao năng lực quản lý, điều hành của công ty nhằm đạt được mục đích An toàn – Hiệu quả – Chất lượng – Liên tục là tôn chỉ hoạt động của tập đoàn lớn Điện lực Việt nghề buôn bán chínhSản xuất, truyền tải, phân phối và giao thương mua bán điện năng; chỉ huy điều hành hệ thống sản xuất, truyền tải, phân phối và phân bổ điện năng trong hệ thống điện quốc gia;Xuất nhập khẩu điện năng;Đầu tư và quản lý vốn đầu tư các dự án điện;Quản lý, vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng, đại tu, cải tạo, nâng cấp thiết bị điện, cơ khí, tinh chỉnh, auto thuộc dây truyền sản xuất, truyền tải và phân phối điện, công trình điện; thí nghiệm vấn quản lý dự án, tư vấn khảo sát thiết kế, tư vấn lập dự án đầu tư, tư vấn đấu thầu, lập dự toán, tư vấn thẩm tra và giám sát thi công công trình nguồn điện, các công trình đường dây và trạm biến tin chi tiếtTrụ sở chính Số 11 Cửa Bắc, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà – đoàn lớn Điện lực Việt Namtập đoàn Điện lực Việt đoàn lớn Dầu khí Việt Namtập đoàn Dầu khí Việt Nam là một trong trụ cột kinh tế của đất nước, thực hiện vai trò là công cụ điều tiết kinh tế mô hình lớn của Chính phủ, đóng góp quan trọng cho ngân sách nhà nước. tập đoàn có đội nhóm lao động hùng hậu với số lượng gần người, có trình độ cao, làm người quản lý các hoạt động dầu khí ở trong nước và ngoài xây dựng được hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ từ tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí đến phát triển công nghiệp khí – điện – chế biến và dịch vụ dầu khí, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng đất nước .Là tập đoàn lớn tiên phong trong hợp tác, hội nhập quốc tế và mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đến nay tập đoàn đang triển khai làm hoạt động dầu khí tại 14 nước trên thế đơn vị nòng cốt, chủ lực của công việc Dầu khí; là trụ cột, đầu tàu dẫn dắt những chuyên môn kinh tế khác phát triển; đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ tin chi tiếtTrụ sở chính Số 18 Láng Hạ, Ba Đình, Hà NộiHotline 84-4 3825 2526Website đoàn lớn Dầu khí Việt Namtập đoàn lớn Dầu khí Việt ty Cổ phần Sữa Việt NamSau nhiều năm phát triển, Vinamilk đã tạo lập được một thương hiệu rất uy tín và được quý khách hàng trong và ngoài nước đặt niềm tin. Hiện Vinamilk có hơn 250 sản phẩm với các ngành nghề hàng chính sữa nước; sữa chua; sữa bột và bột dinh dưỡng; sữa đặc có đường; kem, phô mai; sữa đậu nành; nước trái cây và nước giải khát. Chiến lược phát triển bền vững, để mắt đến phát triển nguồn nguyên liệu chất lượng hàng hóa được Vinamilk rất chú luôn thỏa mãn và có trách nhiệm với quý khách hàng bằng cách đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm với giá cả cạnh tranh, tôn trọng đạo đức giao thương và tuân theo luật định. Đặc biệt, Vinamilk đặt ra mục tiêu tiếp tục duy trì vị trí số một trên thị trường sữa Việt Nam, cung ứng tốt nhất những yêu cầu của người tiêu dùng thông qua việc đa dạng và đơn giản hóa danh mục sản phẩm và dịch vụ, củng cố và gia tăng thị phần của tất cả các nghề tin chi tiếtTrụ sở chính Số 10, Đường Tân Trào, phường Tân Phú, Q7, Tp. HCMHotline 028 54 155 555Email vinamilk nghiệp Cổ phần Sữa Việt Namdoanh nghiệp Cổ phần Sữa Việt nghiệp Cổ phần Hàng không VietJetVietjet là hãng hàng không thứ nhất tại Việt Nam vận hành theo mô hình hàng không thế hệ mới, chi phí tiết kiệm, linh hoạt và cung cấp đa dạng những dịch vụ cho người tiêu dùng lựa mệnhKhai thác và phát triển mạng đường bay rộng khắp trong nước, khu vực và quốc tếMang đến sự đột phá trong dịch vụ hàng khôngthực hiện cho dịch vụ hàng không thành ra phương tiện di chuyển nhiều người biết đến ở Việt Nam và quốc tếMang lại niềm vui, sự hài lòng cho quý khách hàng bằng dịch vụ vượt trội, đẳng cấp và những nụ cười thân hàng không thế hệ mới đang khai thác 129 đường bay tới khắp các điểm đến trong nước và quốc tế tới Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Singapore, Malaysia, Myanmar, Campuchia, Thái Lan, Đài Loan Trung Quốc…Bên cạnh những giải thưởng và ghi nhận của thương trường trong và ngoài nước, Vietjet cũng nhận được cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ vì các đóng góp xuất chúng cho sự phát triển của công việc hàng không Việt tin chi tiếtTrụ sở chính 302/3 Phố Kim Mã, Phường Ngọc Khánh, Quận Ba Đình, Thành phố Hà NộiHotline 84-28 3547 1866Website ty Cổ phần Hàng không VietJetdoanh nghiệp Cổ phần Hàng không hàng TMCP Việt Nam Thịnh VượngLà 1 trong những ngân hàng TMCP sáng lập sớm nhất tại Việt Nam, VPBank đã có những bước phát triển vững chắc trong suốt lịch sử của ngân hàng. Sự tăng trưởng vượt bậc của VPBank thể hiện sinh động ở mức độ mở rộng mạng lưới những chi nhánh, điểm thanh toán giao dịch trên toàn quốc cùng với sự phát triển đa dạng của những kênh kinh doanh và phân cạnh đó, theo định hướng “Khách hàng là trọng tâm”, những điểm thanh toán giao dịch đã được thay đổi hoàn toàn về diện mạo, mô hình và tiện nghi phục vụ. những hàng hóa, dịch vụ của VPBank luôn được cải tiến và kết hợp thêm nhiều tác dụng nhằm gia tăng quyền lợi cho khách hàng… Tất cả đã góp phần thực hiện hài lòng người tiêu dùng hiện tại và thu hút thêm quý khách hàng mới, mở rộng tập khách hàng của VPBank cả về độ lớn và thời gian gắn bó với tốc độ nhanh hàng luôn đi đầu thương trường trong việc ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến trong những hàng hóa, dịch vụ và hệ thống vận hành. cùng theo với việc xây dựng môi trường văn hóa doanh nghiệp vững mạnh, hiệu quả, các hệ thống quản trị nhân sự cốt lõi đã được xây dựng và triển khai thành đạt tại VPBank. Bên cạnh đó, Ngân hàng đã từng bước phát triển một hệ thống quản trị rủi ro độc lập, tập trung và chuyên môn hóa, cung ứng chuẩn mực quốc tế và gắn kết với chiến lược buôn bán của Ngân hàngThông tin chi tiếtTrụ sở chính 89 Láng Hạ, Q Đống Đa, Hà NộiHotline hàng TMCP Việt Nam Thịnh VượngNgân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượngcác tập đoàn, doanh nghiệp lớn mạnh đang góp phần giúp cho đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, phong phú và phát triển trên nhiều chuyên môn. Vươn xa lên tầm quốc tế và thu hút nhiều chủ đầu tư nước ngoài đến Việt Nam hơn
Thời gian qua, DNVVN là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có DN, chủ yếu là các DNNVV đăng ký mới với số vốn đăng ký tỷ đồng, đưa tổng số các DN trong cả nước lên DN với tổng số vốn đăng ký trên tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243 người có 1 DN đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu phát triển KTXH và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 DN trên 20 người dân và so với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp [47]. Sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có một số đặc điểm sau - Số lượng DN ngoài quốc doanh, mà phần lớn trong số đó là DNVVN tăng lên nhanh chóng, trong khi khu vực kinh tế tập thể và DN nhà nước đang được sắp xếp lại theo xu hướng giảm về số lượng. Loại hình doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình khác trừ nhóm hộ kinh doanh cá thể. Theo thống kê, chỉ có khoảng gần 6% tổng số DN ngoài quốc doanh thành lập trước năm 1990, còn lại là ra đời trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay [43-tr36]. - Khu vực DNVVN ngoài quốc doanh trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 8,4%/năm 2006 - 9,3%/năm 2007, cao hơn mức trung bình của cả nước năm 2006 8,23; năm 2007 8,48 [41]. Điều đó phản ánh tiềm năng của khu vực DNVVN đang được huy động và phát huy. - Thực tế cho thấy, trong những năm qua các nhà đầu tư chủ yếu tập trung đầu tư vào các ngành ít vốn, thu hồi vốn nhanh như thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch. Chỉ có khoảng hơn 30% vốn đầu tư được dành cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và công nghiệp chế biến. Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp chế biến ra đời và phát triển nhanh một phần không nhỏ do chính sách đầu tư mạnh của Nhà nước vào xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, văn phòng làm việc, các khu đô thị, đường giao thông, điện,… - Thủ tục thành lập DN đơn giản, qui mô vốn đăng ký của DN mới thành lập giảm đi, nhất là đối với DNTN và công ty TNHH. Do đó tỷ lệ DNVVN trong tổng số các DN ngoài quốc doanh mới thành lập ngày càng lớn. - Như đã đề cập ở trên, có thể khẳng định rằng DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Do vậy, hỗ trợ DNVVN phát triển cũng được coi là một yêu cầu cấp thiết, vì điều này không chỉ có lợi cho DN, mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội. - Quá trình tồn tại và phát triển của các DNVVN cho thấy loại hình DN này còn nhiều non kém, yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như đã đề cập ở trên năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, vốn ít,... Vì vậy, để các DN này phát huy được vai trò của mình, nhất thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa, có nhiều vấn đề mà DN không thể tự mình giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực,... Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho DNVVN đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy chính sách hỗ trợ của Nhà nước không chỉ có lợi cho DN, mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó được thể hiện trên các mặt sau + Đầu tiên, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các DN là cách thức để nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. + Hỗ trợ DN là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước, thay vì đầu tư trực tiếp để thành lập các DN nhà nước. Bằng những chính sách như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ đào tạo nhân lực,.. Nhà nước có thể định hướng phát triển các DNVVN, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp, nâng cao đời sống cho người dân. Mặt khác góp phần tăng tính hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước. Thay vì chỉ thành lập mới được một số ít DN nhà nước, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho nhiều DN khởi nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có các DNVVN. + Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn, vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước.
Doanh nghiệp đang hoạt động tăng bình quân mỗi năm 7,4%Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp Bộ Kế hoạch và Đầu tư,tính đến thời điểm 31/12/2020, cả nước có doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 7% so với cùng thời điểm năm 2019. Tính theo khu vực kinh tế, tại thời điểm 31/12/2020, có doanh nghiệp đang hoạt động trong khu vực dịch vụ, chiếm 66,8% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp của cả nước, tăng 6,5% so với cùng thời điểm năm 2019. Khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, chiếm 31,8%, tăng 7,8%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, chiếm 1,4%, tăng 13%. Xét theo địa phương, có 38/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động thời điểm 31/12/2020 so với thời điểm 31/12/2019 cao hơn bình quân cả nước 7%,trong đó Gia Lai tăng 16,3%; Ninh Thuận tăng 15,3%; Bình Phước tăng 14,2%; Đắk Lắk tăng 13,8%; Trà Vinh tăng 13%; Bắc Ninh tăng 12,5%; Kon Tum và Hậu Giang cùng tăng 11,9%… Có 25/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động thời điểm 31/12/2020 so với thời điểm 31/12/2019 thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có duy nhất tỉnh Bắc Kạn có số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2020 giảm so với cùng thời điểm năm 2019, giảm 1,6%. Một số địa phương có số doanh nghiệp đang hoạt động năm 2020 cao, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, chiếm 31,4% số doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước, tăng 6,3% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, chiếm 20,4%, tăng 6,4%; Bình Dương có doanh nghiệp, chiếm 4,3%, tăng 10,2%; Đồng Nai có doanh nghiệp, chiếm 3,0%, tăng 8,4%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, chiếm 2,9%, tăng 4,9%; Hải Phòng doanh nghiệp, chiếm 2,5%, tăng 1,4%… Bình quân giai đoạn 2017-2020, cả nước có doanh nghiệp đang hoạt động, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 7,4%. Chia theo khu vực kinh tế thì bình quân mỗi năm có doanh nghiệp đang hoạt động trong khu vực dịch vụ, chiếm 66,6% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp của cả nước, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 7,8%. Khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, chiếm 31,9%, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 6,8%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, với tốc độ tăng bình quân mỗi năm đạt 4,6%. Theo địa phương, có 26/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017-2020 cao hơn bình quân cả nước 7,4%,trong đó Bình Dương tăng 14,1%; Bắc Ninh tăng 14,0%; Bình Phước tăng 13,1%; Ninh Thuận tăng 12,3%; Bắc Giang tăng 11,6%… Có 37/63 địa phương có tốc độ tăng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017 - 2020 thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có 3/63 địa phương có xu hướng giảm số doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017-2020 Bắc Kạn giảm 2,6%; Lai Châu và Hải Phòng cùng giảm 0,3%. Một số địa phương có số doanh nghiệp đang hoạt động bình quân giai đoạn 2017 - 2020 cao, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, chiếm 31,6% số doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước; Hà Nội có doanh nghiệp, chiếm 20,4%; Bình Dương có doanh nghiệp, chiếm 4%; Đồng Nai có doanh nghiệp, chiếm 2,95%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, chiếm 2,9%; Hải Phòng doanh nghiệp, chiếm 2,8%. TP. Hồ Chí Minh có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động cao nhấtThống kê của Sách Trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2021 cho thấy, năm 2020, bình quân cả nước có 8,3 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 27,6 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 20,2 doanh nghiệp; Hà Nội có 20,1 doanh nghiệp; Bình Dương có 13,5 doanh nghiệp; Hải Phòng có 9,8 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 9,4 doanh nghiệp; Khánh Hòa và Bắc Ninh cùng có 9 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó những địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp nhất cả nước gồm Hà Giang có 1,4 doanh nghiệp; Sơn La có 1,6 doanh nghiệp; Điện Biên có 1,7 doanh nghiệp; Tuyên Quang có 1,8 doanh nghiệp; Bắc Kạn có 1,9 doanh nghiệp; Yên Bái có 2,1 doanh nghiệp; Cao Bằng và Sóc Trăng cùng có 2,2 doanh chung giai đoạn 2017-2020, bình quân cả nước có 7,7 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 26,3 doanh nghiệp; Đà Nẵng và Hà Nội cùng có 19,1 doanh nghiệp; Bình Dương có 12,6 doanh nghiệp; Hải Phòng có 10,1 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 8,7 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 8,5 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 8,1 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó những địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp nhất cả nước gồm Sơn La và Hà Giang cùng có 1,4 doanh nghiệp; Điện Biên và Tuyên Quang cùng có 1,7 doanh nghiệp; Cao Bằng, Trà Vinh, Yên Bái và Sóc Trăng cùng có 1,9 doanh nghiệp. Nếu xét theo mật độ dân trong độ tuổi lao động, năm 2020, bình quân cả nước có 16,8 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 56,4 doanh nghiệp; Hà Nội có 44,4 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 44 doanh nghiệp; Bình Dương có 21,4 doanh nghiệp; Hải Phòng có 21,3 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 20,2 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 18,4 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 18,2 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động thấp hơn bình quân cả nước, trong đó có 2/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động thấp hơn 3 doanh nghiệp Hà Giang có 2,6 doanh nghiệp; Sơn La có 2,8 doanh chung giai đoạn 2017-2020, bình quân cả nước có 15,1 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động. Có 8/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân trong độ tuổi lao động cao hơn bình quân cả nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh có 53,7 doanh nghiệp; Hà Nội có 41,9 doanh nghiệp; Đà Nẵng có 39,5 doanh nghiệp; Hải Phòng có 21,3 doanh nghiệp; Bình Dương có 20,9 doanh nghiệp; Bà Rịa - Vũng Tàu có 17,8 doanh nghiệp; Bắc Ninh có 16,8 doanh nghiệp; Khánh Hòa có 16,7 doanh nghiệp. Có 55/63 địa phương có mật độ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân thấp hơn bình quân cả nước, trong đó thấp nhất là các địa phương Hà Giang có 2,4 doanh nghiệp, Sơn La có 2,6 doanh nghiệp, Tuyên Quang có 3,0 doanh nghiệp và Điện Biên có 3,1 doanh năm bình quân có thêm hơn doanh nghiệp Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp thành lập mới, giảm 2,3% về số doanh nghiệp so với năm 2019. Xét theo khu vực kinh tế, khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp thành lập mới nhiều nhất với doanh nghiệp, giảm 7,6% số doanh nghiệp so với năm 2019; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 10,2%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có doanh nghiệp, tăng 30,1%. Theo địa phương, có 36/63 địa phương có số doanh nghiệp thành lập mới tăng so với năm 2019; trong đó Cao nhất là Gia Lai tăng 68,8%; Sóc Trăng tăng 47,3%; Hậu Giang tăng 44,5%; Đắk Nông tăng 39,5%… Có 26/63 địa phương có số doanh nghiệp thành lập mới năm 2020 giảm so với năm 2019, trong đó Giảm nhiều nhất là Đà Nẵng giảm 20,9%; Thái Bình giảm 19,8%; Quảng Ngãi giảm 17,9%; Quảng Nam giảm 13,6%… Duy nhất có Cao Bằng có số doanh nghiệp thành lập mới năm 2020 bằng với năm 2019. Đáng chú ý, tình hình đăng ký doanh nghiệp thành lập mới tại một số địa phương có quy mô doanh nghiệp lớn năm 2020 đều giảm so với 2019 như Thành phố Hồ Chí Minh giảm 7,5%; Hà Nội giảm 5,7%; Hải Phòng giảm 2,6%; Bình Dương giảm 0,8%; Bắc Ninh giảm 0,6%; riêng Đồng Nai tăng 2,9%.Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 hàng năm cả nước có doanh nghiệp thành lập mới, với số vốn đăng ký 1,5 triệu tỷ đồng, tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 7,3%. Khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 nhiều nhất với doanh nghiệp, tăng 53,1% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015 trong đó, ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác có số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 nhiều nhất với doanh nghiệp, tăng 43,3% so với giai đoạn 2014 - 2015; trong khi ngành kinh doanh bất động sản có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 nhanh nhất khu vực này, tăng 357,5%, đạt bình quân doanh nghiệp thành lập mới mỗi năm; khu vực công nghiệp và xây dựng có bình quân doanh nghiệp thành lập mới, tăng 49,4%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có bình quân doanh nghiệp thành lập mới, tăng 15,6%. Theo địa phương, có 23/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 cao hơn bình quân chung cả nước 51,3%; trong đó có 3 địa phương có tốc độ tăng trên 100% gồm Thanh Hóa tăng 154,7%; Bắc Giang tăng 118,9%; Bắc Ninh tăng 100%. Có 40/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp thành lập mới bình quân giai đoạn 2016 - 2020 so với giai đoạn 2014 - 2015 thấp hơn bình quân chung cả nước, trong đó có 3 địa phương có tốc độ tăng dưới 20% gồm Đắk Nông tăng 8,2%; Cà Mau tăng 13,2%; Điện Biên tăng 18,3%. Số doanh nghiệp thành lập mới giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục tập trung ở một số địa phương là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước Thành phố Hồ Chí Minh đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 46,1% so với giai đoạn 2014-2015; Hà Nội đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 49,4%; Bình Dương đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 88,2%; Đà Nẵng đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 67,6%; Thanh Hóa đạt bình quân doanh nghiệp, tăng bình quân 154,7%. Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng mạnh Năm 2020 có doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2019. Đây là năm có số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cao nhất trong giai đoạn 2016 - 2020. Tính theo khu vực kinh tế, có doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ quay trở lại hoạt động, tăng 12,5% so với năm 2019; có doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng, tăng 10,5% và 777 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 8,8%. Theo địa phương, có 6/63 địa phương có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2020 trên 1000 doanh nghiệp gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 14,9% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 24,5% so với năm 2019; Hải Phòng có doanh nghiệp, tăng 69,6% so với năm 2019; Thanh Hóa có doanh nghiệp, tăng 11,4% so với năm 2019; Đà Nẵng có doanh nghiệp, tăng 8,3% so với năm 2019; Bình Dương có doanh nghiệp, tăng 29,6% so với năm 2019. Có 5/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2020 so với 2019 trên 50% gồm Đắk Nông tăng 127,5%; Hải Phòng tăng 69,6%; Thái Nguyên tăng 64,5%; Vĩnh Long tăng 59,3%; Đồng Tháp tăng 54%. Có 25/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2020 giảm so với năm 2019 gồm Ninh Bình giảm 61,5%; Lai Châu giảm 46,2%; Hà Giang giảm 41,2%; Kon Tum giảm 35,8%; Bạc Liêu giảm 30,1%...Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 mỗi năm cả nước có doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 84,9% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Theo khu vực kinh tế, bình quân giai đoạn này khu vực dịch vụ có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân hàng năm đạt cao nhất với doanh nghiệp, tăng 91,1% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 73,7%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 695 doanh nghiệp, tăng 58,3%. Theo địa phương, giai đoạn này có 7/63 địa phương có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân trên 1000 doanh nghiệp và có tốc độ tăng cao so với giai đoạn 2014 - 2015 gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 60,8%; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 80,2%; Hải Phòng có doanh nghiệp, tăng 126,0%; Đà Nẵng có doanh nghiệp, tăng 78,3%; Bình Dương có doanh nghiệp, tăng 230,7%; Thanh Hóa có doanh nghiệp, tăng 269,1%; Đồng Nai có doanh nghiệp, tăng 70,4%... Có 2/63 địa phương có tốc độ tăng số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm so với giai đoạn 2014 - 2015 gồm Đồng Tháp giảm 50,6%; Trà Vinh giảm 43,6%.Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp giải thểTrong năm 2020, tổng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký trên phạm vi cả nước là doanh nghiệp, tăng 62,2% so với năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, mỗi năm cả nước có doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký, tăng 110,5% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Khu vực dịch vụ có số lượng doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tạm ngừng kinh doanh có đăng ký nhiều nhất với doanh nghiệp, chiếm 70,3% số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế, tăng 113,5% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 103,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 430 doanh nghiệp, tăng 100,7% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020 mỗi năm số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký ít hơn số doanh nghiệp quay lại hoạt động, chỉ bằng 84,4%; tỷ lệ này thấp nhất ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, với 61,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng với 80,5%; khu vực dịch vụ với 86,8%. Năm 2020, cả nước có doanh nghiệp giải thể, tăng 3,7% so với năm 2019; số lượng doanh nghiệp giải thể bằng 12,9% so với số lượng doanh nghiệp thành lập mới. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, mỗi năm cả nước có doanh nghiệp giải thể, tăng 58,4% so với bình quân giai đoạn 2014 - 2015. Theo khu vực kinh tế Khu vực dịch vụ có số lượng doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giải thể nhiều nhất với doanh nghiệp, chiếm 72,9% số doanh nghiệp giải thể của toàn bộ nền kinh tế, tăng 63,9% so với bình quân giai đoạn 2014-2015; khu vực công nghiệp và xây dựng có doanh nghiệp, tăng 45,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có 395 doanh nghiệp, tăng 37,6% so với bình quân giai đoạn 2014-2015. Theo địa phương, bình quân giai đoạn 2016-2019, có 2/63 địa phương có trên 1000 doanh nghiệp giải thể mỗi năm, gồm Thành phố Hồ Chí Minh có doanh nghiệp, tăng 66% so với năm 2019; Hà Nội có doanh nghiệp, tăng 90,2%. Có 51/63 địa phương có số doanh nghiệp giải thể bình quân giai đoạn 2016-2019 tăng so với bình quân giai đoạn 2014-2015; có 12/63 địa phương có số doanh nghiệp giải thể bình quân giai đoạn 2016-2019 giảm so với bình quân giai đoạn chí Doanh nghiệp và Thương mại – Tháng 8/2021-TÀI LIỆU THAM KHẢO* Bộ Kế hoạch và Đầu tư Sách Trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2021, tháng 7/2021;* Cục Quản lý đăng ký kinh doanh Tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 12 và năm 2020, 28/12/2020.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam và tốc độ tăng trưởng của các DNVVN cũng cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp lớn và vừa. Các DNVVN chiếm phần lớn trong lĩnh vực dịch vụ hay FnB thực phẩm và đồ uống, những lĩnh vực dễ bị tổn thương khi nền kinh tế gặp biến động. Hệ quả rõ ràng mà chúng ta có thể thấy là khi đại dịch COVID-19 bùng phát, đây là những ngành nghề bị ảnh hưởng nặng nề nhất và chuyển đổi kỹ thuật số trên diện rộng đã trở thành điều bắt buộc đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiềm năng phát triển to lớn Trong bối cảnh chưa từng có tiền lệ như hiện nay, nền tảng thương mại điện tử B2B toàn cầu của Tập đoàn Alibaba Trung Quốc đã đánh dấu một năm hoạt động đầy năng động tại Việt Nam, với hàng loạt sáng kiến nhằm đẩy nhanh chuyển đổi số, hỗ trợ các DNVVN Việt Nam vượt qua thách thức, phát triển và vươn ra toàn cầu ngay cả trong thời kỳ đại dịch. Ngoài ra, với 3 Hiệp định Thương mại tự do FTA đã ký với Liên minh châu Âu EVFTA, khu vực ASEAN và 5 nước RCEP và Vương quốc Anh UKVFTA vào năm 2020, nhu cầu chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp để xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và tận dụng công nghệ tiên tiến, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được đào tạo về cách thiết lập và vận hành cửa hàng ảo, đăng sản phẩm, nắm rõ phương thức quảng cáo bằng từ khóa, quản lý lưu lượng truy cập và đơn hàng, xác định xu hướng của người tiêu dùng, xây dựng video giới thiệu sản phẩm và tổ chức các buổi phát trực tiếp livestream nhằm tiếp cận người mua toàn cầu bất chấp việc các buổi triển lãm thương mại truyền thống và các chuyến công tác đang bị gián đoạn. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phát huy thế mạnh về năng lực sản xuất, sản phẩm chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; để nắm bắt cơ hội tiếp cận người mua toàn cầu từ chuyển đổi kỹ thuật số. Nền tảng thương mại điện tử B2B giúp các doanh nghiệp tận dụng xu hướng tất yếu này và phát triển kinh doanh bền vững, dễ dàng và hiệu quả. Trong năm 2021, công ty sẽ tiếp tục làm việc với chính phủ, với các DNVVN tại địa phương để tìm kiếm cơ hội mới và tổ chức các sự kiện và hội thảo nhằm giúp các doanh nghiệp cập nhật những giải pháp và xu hướng toàn cầu mới nhất trong thương mại điện tử. Vươn ra thế giới một cách dễ dàng Từ sứ mệnh của Tập đoàn Alibaba “tạo điều kiện kinh doanh dễ dàng ở bất cứ đâu”, năm 2020 bắt đầu bằng hội thảo trực tuyến nhằm giới thiệu những cơ hội mà thương mại điện tử xuyên biên giới B2B mang lại trong bối cảnh COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp cũng như cách tận dụng các công cụ và giải pháp của nền tảng như triển lãm thương mại trực tuyến và phát trực tiếp livestream. Tiếp theo đó, sáng kiến mang tính bước ngoặt, đã được giới thiệu nhằm hỗ trợ các DNVVN Việt Nam trong ba nhiệm vụ chính - tham gia nhanh hơn vào nền tảng để thiết lập phạm vi tiếp cận toàn cầu, tận dụng các giải pháp giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh và các dịch vụ được thiết kế riêng để giúp các DNVVN phát triển khả năng thương mại trực tuyến. Cũng trong năm qua, công bố triển khai dự án 100 nhà xuất khẩu tài ba Việt Nam, một sáng kiến dài hạn nhằm tôn vinh những nhà bán hàng xuất sắc trong nước, đồng thời cung cấp cho các DNVVN Việt Nam các chương trình ưu đãi về đào tạo và tư vấn nhằm nâng cao năng lực bán hàng, khả năng tiếp thị, quảng bá sản phẩm cũng như khả năng hoạch định chiến lược kinh doanh hiệu quả. Năm 2020 cũng đánh dấu sự hợp tác của với Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương với mục tiêu nâng cao nhận thức về chuyển đổi số của DNVVN và thúc đẩy quá trình bằng cách nâng cao năng lực trực tuyến và kỹ năng vận hành thông qua các khóa đào tạo và sáng kiến được thiết kế riêng. Hai bên đã tổ chức loạt hội thảo dành cho các DNVVN tại 5 tỉnh thành là Hà Nội, Lào Cai, Đà Nẵng, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những thành phố lớn, có nhiều khu công nghiệp quan trọng và nhiều công ty xuất khẩu tiềm năng, đã rất hào hứng và hăng hái tham gia học hỏi kinh nghiệm xuất khẩu trực tuyến toàn cầu. Tiếp tục nỗ lực để tiếp cận DNVVN Với mục tiêu cam kết hỗ trợ DNVVN Việt Nam trong 3 năm tới và đẩy mạnh chuyển đổi kỹ thuật số, vào năm 2021, sẽ tiếp tục làm việc với chính quyền địa phương, cung cấp các dịch vụ và giải pháp trực tuyến phù hợp và hiệu quả. Trong năm 2021, sẽ tiếp tục chuỗi hội thảo hợp tác với Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, mở rộng sang nhiều loại hình sự kiện bao gồm hội thảo, sự kiện lớn và roadshow tại các khu công nghiệp. Trong tháng 1 và tháng 2, và Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổ chức 4 buổi hội thảo tại 4 tỉnh, thành phố công nghiệp quan trọng của Việt Nam là Vũng Tàu, Quảng Ninh, Quy Nhơn và Buôn Mê Thuột. Với mục tiêu gia tăng và đẩy nhanh chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh doanh, chúng tôi hợp tác với một nền tảng thương mại điện tử toàn cầu đáng tin cậy để chia sẻ kinh nghiệm và các bài học thực tiễn của họ cũng như cách các doanh nghiệp có thể tận dụng chúng để tồn tại và phát triển. Thông qua quan hệ đối tác với chúng tôi cam kết cung cấp các hoạt động và chương trình đào tạo hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp họ vượt qua những thách thức hiện nay”, ông Hoàng Minh Chiến - Phó Cục Trưởng Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Công Thương cho biết. Với lợi thế và kiến thức chuyên môn của một nền tảng thương mại điện tử B2B hàng đầu, sẽ tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn, các lớp đào tạo và các công cụ thân thiện với người dùng để mang đến cho các DNVVN nhiều cơ hội trực tuyến hơn và hỗ trợ họ trong thời kỳ tình hình môi trường và kinh tế toàn cầu luôn thay đổi.
Trước yêu cầu phát triển mới, hơn lúc nào hết, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục phát huy vai trò, khẳng định vị thế, góp phần hiện thực hóa khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Có nhiều đóng góp cho nền kinh tế Đội ngũ doanh nhân được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, cùng nhiều chính sách hỗ trợ, tạo động lực đã được ban hành và thực thi, đến nay đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện. Nhiều doanh nhân đã làm rạng rỡ trí tuệ, nghĩa khí, tài năng Việt Nam khi tên tuổi đã vượt ra ngoài đất nước, xếp hạng cùng những doanh nhân lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển không ngừng về số lượng. Tính đến nay, Việt Nam đang có khoảng gần 7 triệu doanh nhân, 860 nghìn doanh nghiệp. Khu vực này cũng đóng góp hơn 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo ra việc làm cho 14,7 triệu lao động, chiếm gần 28% lực lượng lao động của toàn xã hội. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Theo đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW cho thấy Đảng ta đã có sự nhìn nhận, đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới. Đến nay, rất nhiều doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã tạo đột phá trong quản trị doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh để hình thành những tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh với những dự án đầy tham vọng, mang tầm vóc quốc tế, tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như sản xuất ô-tô, hàng không, công nghệ thông tin,... Bên cạnh đó, đội ngũ doanh nhân còn tạo công ăn việc làm, cũng như an sinh xã hội, phục vụ công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh chỉ ra nhiều hạn chế của cộng đồng doanh nhân cần sớm khắc phục như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vẫn ở mức trung bình so thế giới, chưa đạt mục tiêu lọt vào nhóm 3, nhóm 4 của ASEAN,... Việc khơi dậy, phát huy đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam chưa được quan tâm tương xứng, chưa thật sự trở thành nguồn lực phát triển bền vững cho đất nước. Do đó, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục nghiên cứu, có giải pháp mới để xây dựng và phát huy vai trò của mình gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với đó là những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao về nâng cao năng lực, phẩm chất, chất lượng nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân đủ tài, đủ tâm và đủ tầm để đáp ứng được những thay đổi và thách thức ngày càng lớn của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế,... Chủ động, linh hoạt, sáng tạo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan. Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan, nhờ có những chủ trương, chính sách hỗ trợ đúng, trúng của Chính phủ và Quốc hội, sau hơn hai năm chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp đã thích ứng và vực dậy, nắm bắt những cơ hội mới để phát triển. Từ đó, giúp năng lực của đội ngũ doanh nhân là chủ các doanh nghiệp cải thiện rõ rệt. Song cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế số lượng và chất lượng đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, hiệu quả hoạt động chưa cao. Vì vậy, Chính phủ cần có thêm những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển văn hóa doanh nghiệp để trở thành một lợi thế cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu; đẩy mạnh chuyển đổi số, áp dụng công nghệ mới vào mô hình quản trị, phương thức điều hành; đầu tư, nghiên cứu hơn nữa trong sản xuất, kinh doanh để chủ động thích ứng với thị trường. Cùng với đó, trong thời gian tới mong Quốc hội tiếp tục tăng cường tính giám sát nhằm giúp cộng đồng doanh nghiệp có thêm niềm tin trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo sự yên tâm, giảm sự rủi ro, tránh được những biến động bất ngờ trong thể chế, chính sách để bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh luôn an toàn, thuận lợi và ổn định cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu rộng, hiệu quả dựa trên ba trụ cột là con người, tài nguyên thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa, do đó, cần phát huy tối đa năng lực, phẩm chất, trí tuệ của người Việt Nam trong mỗi doanh nhân; xây dựng văn hóa lành mạnh, văn minh, chuyên nghiệp, bình đẳng trong doanh nhân, đặt lợi ích của dân tộc, đất nước lên trên hết; bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn năm 2021-2030 trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra nhiệm vụ, phải phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng; khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất hai triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt từ 60-65%. Điều này thể hiện khát vọng của dân tộc nhưng cũng đặt ra rất nhiều những áp lực, thách thức cho cả hệ thống chính trị. Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công. Để hiện thực khát vọng này, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Tấn Công cho rằng, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân cần chủ động trau dồi thêm kiến thức pháp luật kinh doanh, nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong quản lý, tính chuyên nghiệp; linh hoạt, sáng tạo hơn nữa trong cạnh tranh và hội nhập; từng bước xây dựng văn hóa liêm chính, đạo đức trong kinh doanh, cũng như tạo thêm sự liên kết phát triển chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh sự nỗ lực từ cộng đồng doanh nghiệp, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo; ngăn ngừa doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp; thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từ đó, khơi dậy, khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khát vọng làm giàu chân chính trong xã hội.
sự phát triển của doanh nghiệp việt nam