Gợi ý làm bài. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại nhớ đến "Một đám cưới nghèo" của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ
Truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân đã tô đậm nét đẹp truyền thống ấy qua nhân vật ông Hai với tình yêu làng Chợ Dầu thiết tha, mặn nồng. Kim Lân đã rất khéo léo khi đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh đặc biệt. Giặc đến cướp làng và gia đình ông
1 Đôi nét về tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt . 1.1 Tìm hiểu về nhà văn Kim Lân; 1.2 Giới thiệu truyện ngắn Vợ nhặt; 2 Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt của Kim Lân. 2.1 Thị có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân đáng thương của nạn đói; 2.2 Nhân vật Thị vẫn khát khao một mái ấm gia đình
Đề bài "Đóng vai ông Hai nói lại truyện ngắn Làng" của nhà văn Kim Lân, nhập vai vào nhân vật ông nhì ngay trong bài viết này nhé. Bạn đang xem: Đóng vai ông hai kể lại chuyện ngắn làng Làng là 1 truyện ngắn xuất xắc của Kim Lân trong các số đó có nhân thiết bị ông Hai. Ông nổi lên với rất nhiều phẩm hóa
Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Posted on 09/03/2021 by Cẩm nang hay 24h Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã "biết sống" như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt. Qua tác phẩm này, Kim Lân đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Mời các bạn cùng tham khảo các bài văn mẫu sau. Xem thêm:
Fast Money. Tình yêu đối với quê hương và lòng yêu nước, cùng tinh thần chống lại kẻ xâm lược của người nông dân đã được tác giả truyện Làng thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động thông qua nhân vật ông Hai. Tác phẩm này được đưa vào chương trình học môn Ngữ văn lớp 9. Mục lục bài viết 1 1. Đôi nét về nhà văn Kim Lân và tác phẩm Làng mà bạn cần biết Tìm hiểu chung về nhà văn Kim Lân Tìm hiểu chung về tác phẩm Vợ nhặt Ý nghĩa đặc sắc ẩn chứa trong nhan đề “Làng” 2 2. Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 1 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 2 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 3 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 4 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 5 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 6 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Mẫu 7 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất 1. Đôi nét về nhà văn Kim Lân và tác phẩm Làng mà bạn cần biết Tìm hiểu chung về nhà văn Kim Lân Ông sinh ra tại làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 2008, địa phận này thuộc phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, trong vùng Hà Nội. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được hoàn thành trình độ tiểu học trước khi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu sáng tác truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện như Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa… mang tính chất tự truyện, nhưng vẫn thành công trong việc tái hiện không khí tiêu cực và ảm đạm của cuộc sống nông thôn Việt Nam, cùng với những khó khăn và thử thách mà người dân nông thôn phải đối mặt trong thời kỳ đó. Ông đã lấy bút danh Kim Lân từ tên của nhân vật Đổng Kim Lân trong Tuồng Sơn Hậu, một vai ông đã từng đóng. Tìm hiểu chung về tác phẩm Vợ nhặt Ông đã thu hút sự chú ý của công chúng bằng những đề tài độc đáo, như tái hiện các hoạt động văn hóa truyền thống của thôn quê như đánh vật, chọi gà, thả chim…. Trong các tác phẩm như “Đôi chim thành”, “Con mã mái”, và “Chó săn”, ông đã mô tả một cách sinh động những hoạt động trên, giúp tái hiện phần nào vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam trước khi đến Cách mạng tháng Tám – những người sống trong cảnh khốn khó nhưng vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực báo chí và văn học. Ông tiếp tục viết về làng quê Việt Nam, một lĩnh vực mà ông đã có kiến thức sâu sắc từ lâu. Các tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tập truyện ngắn “Nên vợ nên chồng” 1955 và “Con chó xấu xí” 1962. Ý nghĩa đặc sắc ẩn chứa trong nhan đề “Làng” Từ “Làng” là tên của truyện, không phải “Làng Dầu”. Nếu tên là “Làng Dầu”, vấn đề mà tác giả muốn đề cập sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng dầu. Ý của tác giả là muốn nhắc đến một vấn đề phổ biến ở tất cả các làng quê và trong tất cả người nông dân. Vì vậy, “Làng” là một tiêu đề hợp lý cho ý của tác giả. Chủ đề của truyện là ca ngợi tình yêu của người dân đối với quê hương và những thay đổi trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhan đề “Làng” thể hiện tình yêu đặc biệt của ông Hai đối với quê hương và đồng thời cũng thể hiện tình yêu đó của những người dân quê Việt Nam đối với đất nước. Mẫu 1 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Đây là câu chuyện về ông Hai, một người nông dân đầy lòng yêu nước. Trong thời gian chiến tranh, ông phải cùng gia đình rời xa làng chợ Dầu để đến nơi khác sinh sống. Dù ở xa, ông vẫn luôn nhớ về quê hương và tự hào về truyền thống yêu nước của làng. Thường xuyên khoe với mọi người về ngôi làng anh hùng của mình. Tuy nhiên, một ngày nọ ông nghe tin làng mình đã đầu hàng giặc. Ông rất đau khổ và xấu hổ, và chỉ muốn ở nhà và tâm sự với con cái. Sau nhiều suy nghĩ, ông quyết định rằng làng phải thù giặc, bởi lòng yêu nước của ông vẫn lớn hơn tình yêu dành cho làng. Rất may, ông Hai được biết là việc làng theo giặc chỉ là một kế hoạch dụ giặc để tiêu diệt. Khi biết tin này, ông rất vui mừng và lại tự hào hơn nữa về làng mình. Ông tiếp tục khoe với mọi người về ngôi làng anh hùng của mình. Mẫu 2 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Ông Hai là một người con của làng Chợ Dầu, tuy đã phải sống xa nhưng vẫn luôn ghi nhớ về quê hương nơi mình sinh ra và lớn lên. Một ngày nọ, khi ông trở về làng, ông nghe được tin đồn rằng làng đã bị Tây đốt, điều này khiến ông thất vọng và không tin vào sự thật. Tuy nhiên, sau đó, có người trong làng đến báo tin rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt, mọi người vẫn tiếp tục chiến đấu cho cách mạng. Ông Hai vui mừng trở lại và khoe với mọi người rằng dù mất tài sản, nhưng cả làng vẫn yêu nước và yêu cách mạng. Mẫu 3 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Ông Hai rất yêu quê hương của mình, làng chợ Dầu. Dù đã di cư đến nơi khác, ông vẫn thường kể về làng, tỏ ra tự hào về nó. Một khi nhận được tin rằng làng chợ Dầu đã theo phương Tây, ông đã rơi vào tình trạng đau khổ và nằm liệt trong nhà suốt ba hoặc bốn ngày. Tuy nhiên, ông đã được cải chính rằng làng chợ Dầu không phải là làng Việt gian và không theo Tây, điều này đã mang lại niềm hạnh phúc cho ông và ông đã khoe với mọi người. Mặc dù nhà của ông đã bị đốt cháy, ông vẫn vui mừng vì làng của ông vẫn đang chiến đấu. Tác phẩm này đầy chân thực, sâu sắc và cảm động, thể hiện tình yêu với quê hương, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời xa quê hương. Mẫu 4 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Ông Hai là một người nông dân yêu quý làng Chợ Dầu của mình. Khi ủy ban kháng chiến yêu cầu, ông phải tạm rời quê hương cùng gia đình. Tuy đã xa làng nhưng ông vẫn rất nhớ nơi đó. Trong những ngày đó, ông luôn gợi nhớ về làng Chợ Dầu và mong muốn trở về. Một ngày, ông nghe tin làng của mình đã bị coi là Việt gian theo Tây. Ông Hai cảm thấy bức xúc và đau đớn, chỉ còn có đứa con thơ để tâm sự. Khi đi trên đường, ông quyết định không quay lại làng vì theo ông “yêu làng thật nhưng không thể tha thứ cho làng theo Tây”. Tuy nhiên, sau đó ông nghe được tin tức cải chính rằng làng Chợ Dầu vẫn kiên cường đánh Pháp. Ông rất vui mừng và hãnh diện khi chia sẻ tin tức này với mọi người, mặc dù nhà ông đã bị đốt cháy bởi quân Tây. Mẫu 5 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Ông Hai sinh sống tại làng Chợ Dầu và phải sơ tán cùng gia đình trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Tuy đã rời xa quê hương, nhưng ông vẫn luôn bồi hồi nhớ về làng và cập nhật tin tức cách mạng. Khi tin đồn rằng làng Chợ Dầu đã bị kẻ thù chiếm đóng, ông rơi vào tình trạng đau khổ và xấu hổ vô cùng. Ông trở nên rụt rè và tách biệt với mọi người, sợ nghe tin đồn liên quan đến làng của mình. Thêm vào đó, tin đồn rằng người ta không cho phép người dân làng ở lại vì cho rằng làng của ông thuộc diện Việt gian càng làm ông thêm buồn phiền. Ông không tìm được ai để tâm sự, không dám rời khỏi nhà. Thế nhưng, ông đã tìm được niềm an ủi bằng cách chia sẻ với con út để giảm bớt nỗi đau và những suy nghĩ tiêu cực. Khi nhận được tin tức cải thiện, ông tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Ông đã chia sẻ tình cảm và phát quà cho các con, rồi báo tin vui đến mọi người rằng nhà ông không bị đốt và làng Chợ Dầu không phải là làng Việt gian. Ông càng yêu và tự hào hơn về quê hương của mình. Mẫu 6 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Truyện ngắn “Làng” của tác giả Kim Lân kể về thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống lại quân thực dân Pháp đầy ác liệt. Trong truyện, nhân vật chính là ông Hai – một người dân bị buộc phải rời khỏi làng vì chiến tranh để tìm nơi trú ẩn mới. Tuy đã xa làng nhưng ông vẫn luôn nhớ về ngôi làng của mình. Khi trở về làng, ông biết rằng ngôi làng đã bị chiếm đóng bởi quân giặc Tây, điều này khiến ông cảm thấy tủi nhục và xấu hổ đến nỗi không dám ra khỏi nhà trong một thời gian dài. Thêm vào đó, ông cũng gặp khó khăn khi chủ nhà không cho gia đình ông ở vì ông được coi là người của làng Việt gian. Tuy nhiên, ông đã được biết rằng làng Chợ Dầu vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại quân thực dân Pháp theo cách mạng do cụ Hồ lãnh đạo. Tin tức này khiến ông vui mừng và trở lại làng Chợ Dầu. Ông đã khoe với mọi người rằng dù quân giặc Tây đã đốt sạch ngôi nhà của mình tại làng Chợ Dầu nhưng ngôi làng vẫn yêu nước và yêu cách mạng. Đây là niềm vui của một con người yêu quê hương, yêu đất nước chân chính. Mẫu 7 – Tóm tắt tác phẩm Làng của Kim Lân đầy đủ nhất Truyện ngắn Làng miêu tả cuộc sống của người dân trong một ngôi làng nghèo nằm trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược. Nhân vật chính trong truyện là Ông Hai, người đã sinh ra và lớn lên tại đó nhưng phải di tản đi nơi khác. Ông thường tự hào và kể với mọi người về cuộc sống và văn hóa của làng mình. Tuy nhiên, tin đồn rằng làng đã bán nước cho giặc đã khiến ông cảm thấy thất vọng và xấu hổ. Thay vì bỏ mặc vấn đề, ông quyết định đứng lên và tuyên bố rằng tình yêu đối với đất nước vượt trên hết. Ông từ chối làm bạn với những người ủng hộ giặc và hướng đến sự thay đổi cho làng của mình. Khi tin tức về sự cải cách của làng lan truyền, ông rất vui mừng và tự hào về sự phát triển của làng và ngôi nhà của mình, bất chấp những thử thách mà làng đã trải qua trong quá khứ.
Suốt cả một đời văn, Kim Lân chuyên viết truyện ngắn về làng quê Việt Nam – mảng sống từ lâu ông hiểu biết khá kỹ lưỡng. Sau này vẫn viết về nông thôn, ông đề cập đến sự đổi mới mặt tình cảm của người nông dân trong cách mạng và kháng chiến; sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất; những hoạt động phục vụ cách mạng tuy thầm lặng, bình thường nhưng thật đáng quý trọng ông còn là tác giả của nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi mà người lớn đọc cũng thích thú, say mê. Ngoài viết văn, ông tham gia đóng một số phim, chỉ ít phút xuất hiện, nhưng gây ấn tượng mạnh. Nội dung
Kim Lân truyện ngắn khổ nhỏ Nhà xuất bản Văn học Tác giả Kim Lân Năm xuất bản 2014 Số trang 235 Khổ sách 10 x 16 cm Dạng bìa Bìa mềm Giới thiệu sách Kim Lân- truyện ngắn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu sâu sắc, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Tuyển tập "Kim Lân- truyện ngắn" tập hợp các tác phẩm hay của ông. Trong lao động bình thường của một người viết văn xuôi luôn luôn xẩy ra một sự tranh chấp giữa một bên là cái ý định phải dấu mình đi để cho từ cái tình huống, cái bối cảnh, cái nhân vật… mà mình dựng ra sẽ nói lên cái tôi - tức là cái tư tưởng chủ đề, cái yêu, cái ghét của mình… và một bên là cái cảm hứng tự nhiên của một người cầm bút, là muốn được trực tiếp bày tỏ, diễn đạt, kể lể… Đối với những phong cách văn xuôi giàu chất thơ hay những tác giả văn xuôi thường viết theo cảm quan hiện thực chủ nghĩa nghiêm ngặt thì sự tranh chấp trên thường diễn ra với những mức độ và sắc thái không giống nhau. Nhìn ngắm dung mạo bên ngoài hàng ngày của nhà văn Kim Lân người ta dễ nhận ra rằng đích thị đây là một người của làng cầm bút, một người của giới có nội tâm. Nhưng bảo rằng, thử đoán xem ông là nhà thơ hay nhà viết văn xuôi, thì chịu... ấy là chưa kể là ông còn đóng phim - chả biết ông học làm diễn viên từ bao giờ, tại trường lớp nào, hay là chỉ học ở cái trường đời, mà thấy ông đóng vai này vai nọ, ông diễn rất được, rất vào. Ông là người đa tài chăng? Truyện ngắn "Làng” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc khánh chiến chống Pháp 1948. Đây là một tác phẩm độc đáo viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu quê hương, yêu làng sâu sắc của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người nông dân Việt Nam ta trong những ngày đầu chống Pháp. Trích dẫn “Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu thủ que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ông Hai vùng dậy, sang bên bác Thứ nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì không thích nghĩ ngợi như thế một tý nào. ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để làm đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp. Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. ông phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay “Thế nào, hôm nay có gì không bác?” Trích “Làng” -Kim Lân Các truyện ngắn của Kim Lân Đứa con người vợ lẽ Người kép già Đôi chim thành Cơm con Con Mã Mái Trả lại đòn Làng Vợ nhặt Ông Cản Ngũ Ông lão hàng xóm Con chó xấu xí
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐAI HỌC SƯ PHẠM - TP HỒ CHÍ MINH ±±± ĐẶNG THỊ HUY LAM ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN KIM LÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PSG- TS TRẦN HỮU TÁ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH –2005 1 DẪN NHẬP I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Làng Chợ Dầu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là mảnh đất lắm nhân tài, nhiều văn nhân. Chính mảnh đất tài hoa ấy đã đem đến cho văn học Việt Nam hiện đại một nhà văn có tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1920. Nhà văn ấy sau này lấy bút danh Kim Lân. Nhắc đến các cây bút nổi tiếng viết về nông dân và nông thôn Việt Nam, không thể không nhắc đến Kim Lân. Ông đến với văn chương bằng sự say mê, ham thích như lời ông tâm sự “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc” [19, 263]. Tuổi thơ cơ cực, chòu nhiều thiệt thòi, Kim Lân phải sớm vào đời để kiếm sống và ông viết văn cũng là để thể hiện mình. Kim Lân viết văn khi vẫn còn là một anh thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong. Kim Lân là người thông minh, ham hiểu biết và thích quan sát, do vậy ông đã tích luỹ được một vốn sống dày dặn, hiểu biết khá cặn kẽõ phong phú về nông thôn, đặc biệt là phong tục văn hoá của vùng Kinh Bắc quê hương ông. Vốn sống ấy giúp Kim Lân sau này có những trang viết độc đáo, hấp dẫn nhưng mộc mạc, bình dò như chính cuộc sống. Kim Lân trình làng văn bằng truyện ngắn đầu tiên Đứa con người vợ lẽ đăng trên tuần báo Trung Bắc chủ nhật 1942 và hơn hai mươi năm sau, ông có truyện ngắn cuối cùng Bà mẹ Cẩn 1969. Đến nay, đã lâu lắm rồi, Kim Lân không sáng tác nữa nhưng không ít độc giả vẫn tìm đến với các tác phẩm của ông vì nhiều lí do khác nhau. Cả đời văn, Kim Lân chỉ chuyên viết truyện ngắn và viết về người lao động nghèo với tất cả tấm lòng đôn hậu của người con sinh ra từ đồng ruộng. Trước Cách 2 mạng tháng Tám, Kim Lân tạo được tiếng vang trên văn đàn văn học bằng một loạt truyện ngắn viết về phong tục tập quán và thú chơi đồng quê - mảng đề tài mà ông am hiểu cặn kẽ. Các truyện nổi tiếng như Con mã mái, Đôi chim thành, Đuổi tà, Chó săn……... không chỉ giúp người đọc hiểu biết về những phong tục đất lề quê thói mà còn yêu mến hơn những con người bình dò, trong sáng mà tài hoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của nhà văn. Ông có những trang viết xuất sắc về sự đổi thay trong nhận thức, tình cảm cũng như sự đổi đời của người nông dân, người lao động nghèo. Truyện ngắn Làng và Vợ nhặt là hai truyện ngắn viết sau Cách mạng tháng Tám. Đó là hai truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Hai tác phẩm này đã được tuyển chọn đưa vào dạy và học trong chương trình văn học ở các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông bên cạnh những tác phẩm của các tác giả văn học lớn. Tuy viết không nhiều nhưng “Q hồ tinh bất q hồ đa”, Kim Lân được xem là người có biệt tài viết truyện ngắn và đóng góp nhiều cho thể tài này. Viết thay lời bạt trong Tuyển tập Kim Lân, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã nhận xét độc đáo, sắc sảo về truyện ngắn Kim Lân “Những truyện ngắn Kim Lân thì quả là đặc sắc, tinh vi, ranh mãnh, dồn nén và cả đáo để nữa” [62, 645]. Một lời nhận xét như một sự gợi ý khiến người yêu văn học, nghiên cứu văn học thích thú khám phá mà kiểm nghiệm cho nhận xét độc đáo đầy gợi mở này. II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Để hoàn thành đề t luận văn, chúng tôi đã khảo sát và nghiên cưú truyện ngắn Kim Lân từ ba nguồn tài liêụ sau đây 1-Tuyển tập Kim Lân do Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1996. Gồm 17 truyện ngắn. 3 2- Kim Lân-Tác phẩm chọn lọc, ấn phẩm do nhà xuất bản Hội nhà văn mới phát hành năm 2004. Gồm 23 truyện ngắn, nhiều hơn Tuyển tập Kim Lân 6 truyện nhưng lại không có truyện Nỗi này ai có biết. 3- Truyện Cô Viạ- một truyện ngắn do chúng tôi vừa sưu tầm được từ baó Trung Bắc chủ nhật số 135, ngày 8-11-1942. Như vậy, tổng số tác phẩm Kim Lân được chúng tôi tập trung khảo sát và nghiên cứu là 27 truyện ngắn, trong đó có 13 truyện viết trước Cách mạng tháng Tám và 14 truyện viết sau Cách mạng tháng Tám. III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Những ý kiến, nhận xét về truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân đến với làng văn bằng một loạt các truyện ngắn như Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Người kép già, Cô Vòa….. … Đó là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã nhận xét về những truyện ngắn Kim Lân thời kì nà trong Những nhân vật ấy đã sống với tôi rằng “Từ giữa năm 1943- 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt nhiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy. … Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có một cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết, đặc biệt lại gần gũi với mình”[42,10]. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa hiện thực khách quan - nhà văn - tác phẩm, Nguyên Hồng đã có những nhận xét xuất sắc, chính xác cảø về phương diện nội dung, tư tưởng lẫn giọng điệu văn chương của Kim Lân. Văn của Kim Lân có cái gì rất gần gũi, bình dò. Đó là văn của một người viết về chính cuộc sống mình, hàng xóm mình. Kim Lân viết văn với ý nguyện rất đỗi giản dò như lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong Từ điển Văn học, tập 4 1 “Kim Lân quan niệm viết văn như cách đòi cho mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương”[113,369}. Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1997, Vũ Dương Quỹ đã nhận xét khá sắc sảo về nội dung, tư tưởng của truyện ngắn Kim Lân “Những truyện ngắn Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám, bên những thân phận con người lam lũ vất vả, vẫn phập phồng trái tim yêu đời, những mong muốn tuy mơ hồ nhưng da diết, con người đối xử với nhau bao dung, nhân hậu hơn”. Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân được đánh giá cao khi viết về mảng đề tài sinh hoạt văn hoá và phong tục làng quê. Vũ Bằng khi đọc các truyện của Kim Lân đã khen và khuyên Kim Lân nên viết về thú chơi thôn quê. Các truyện Con Mã mái, Đôi chim thành, Đánh vật, Chó săn…...… lần lượt được đăng trên các Báo Trung Bắc chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy. Nhận xét truyện ngắn viết về đề tài phong tục và thú chơi đồng quê của Kim Lân sau khi so sánh với truyện của các tác giả khác cùng chung đề tài, Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng đònh rõ “ Văn Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” và ông tiếp tục lí giải “Sở dó có sự hấp dẫn, không phải vì ở đấy, những tập quán ngộ nghónh kì lạ, những thú chơi phiền phức, cầu kì được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã hiển hiện lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [73, 64 ]. Kim Lân thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên từ vùng quê Bắc Ninh, một vùng văn vật nổi tiếng của đất Kinh Bắc. Chất tài hoa, sự lòch lãm, nề nếp cổ xưa dường như in đậm dâú ấn trong văn chương của ông. Đọc truyện ngắn Kim Lân, chúng ta dễ bò cuốn hút bơỉ một thứ chất đồng bằng Bắc bộ kín đáo, dung dò và chín chắn. Truyện ngắn Kim Lân vì thế cũng rất có ích cho những nhà xã hội học muốn nghiên cưú, tìm hiểu về mảnh đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa. 5 Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Nguyễn Đăng Mạnh một lần nữa nhận xét tổng quát hơn về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân hậu của nhà văn “Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chứa chất nhân thế, nhân tình, hoặc những trang tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện được một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám - những người sống vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa”[73, 369]. Thành công của Kim Lân chủ yếu là do năng khiếu tài hoa và một vốn sống tự nhiên mà theo Nguyên Hồng - tác giả cuốn Bước đường viết văn năm 1970 đã từng khẳng đònh đó là một con người luôn luôn “Một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Những ý kiến đánh giá - nhận xét về truyện ngắn Kim Lân sau Cách mạng tháng Tám. Trên báo Văn nghệ số 34 1991, Trần Ninh Hồ đã có nhận xét thật xúc động “Tuy tầm vóc, vò trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành lời…... Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy, ta lại cảm thấy không một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỷ qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn truyện ngắn”. Đây có lẽ là lời nhận xét của một người hiểu và cảm nhận sâu sắc truyện ngắn Kim Lân để rồi thấy rõ vai trò, tác dụng của những tác phẩm ấy với hiện thực khách quan. Trong Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, với cái nhìn biện chứng sắc sảo và quan điểm lòch sử, Nguyễn Đăng Mạnh đã đưa ra những lời nhận xét thuyết phục về đặc điểm, vò trí của truyện ngắn Kim Lân “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương diện xã hội chính trò, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh của đất nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những 6 truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [77, 49]. Như vậy, cũng giống bao văn nghệ só khác, Cách mạng đã đem đến cho Kim Lân cảm hứng mới, ý thức hơn về trách nhiệm nhà văn trước cuộc sống cũng như tầm nhìn, tầm nghó của chính bản thân. Truyện Làng được viết và in năm 1948 trên Tạp chí Văn nghệ số đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm này nhanh chóng được khẳng đònh và là một trong số không nhiều truyện ngắn thành công sớm nhất của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Cùng với Đôi mắt cuả Nam Cao, Thư nhà của Hồ Phương, Làng của Kim Lân đã khai phá và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho văn học kháng chiến chống Pháp. Làng là một truyện ngắn xuất sắc Kim Lân miêu tả và ca ngợi sự đổi mới về nhận thức và tình cảm của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám. Sau truyện ngắn Làng, Kim Lân tiếp tục nổi tiếng với Vợ nhặt. Tác phẩm được nhà văn viết với sự xúc động mãnh liệt từ nạn đói khủng khiếp của dân tộc năm 1945 - nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số ít ỏi của Việt Nam lúc bấy giờ. Trong Tiếng nói tri âm viết 1994, Trần Đồng Minh đã đánh giá, khẳng đònh vò trí của truyện ngắn Vợ nhặt bằng sự so sánh văn học “ Kim Lân chọn bối cảnh ấy nạn đói 1945 cho truyện Vợ nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân, khiến ta khiếp sợ, rụng rời” [82,126]. Đặt trong mối liên hệ biện chứng và sự phát triển chung của văn học thời kì này, Vũ Dương Quỹ đánh giá chân xác “Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghóa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945” [89, 125]. Đúng vậy, truyện ngắn này không một dòng tố cáo mà sức mạnh tố cáo cứ dậy lên trên từng con chữ. Số phận bi thảm của những con người nghèo đói, 7 cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng chính là bản án đanh thép tố cáo tội ác hủy diệt của Pháp- Nhật. Trong Nghề văn cũng lắm công phu tái bản năm 2003, Nguyễn Khải, một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại tâm sự “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”. Theo cách nói của Nguyễn Khải, nhà văn Kim Lân được xếp vào hàng những nhà văn xuất sắc của thế kỷ XX. Chẳng thế mà Nguyễn Khải khi đọc Làng và Vợ Nhặt của Kim Lân đã ngạc nhiên mà thốt lên rằng “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”. Khẳng đònh về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, Hà Minh Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều nhưng những sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [19,31]. Cả đời văn Kim Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập trung miêu tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế giới nghệ thuật của ông không vì vậy mà bò giảm sức sống và sự hấp dẫn. Dù bao lớp bụi phủ mờ thời gian, truyện ngắn Kim Lân đã và đang có vò trí xứng đáng trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sau khi dừng lại ở một số ý kiến nhận xét, đánh giá đáng chú ý của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi thấy về cơ bản các nhà nghiên cứu đều có chung nhận xét Kim Lân chỉ chuyên viết truyện ngắn và viết không nhiều nhưng nói đến những nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc ở nước ta không thể không nhắc đến Kim Lân. Mặc dù Kim Lân được đánh giá là người có tài viết truyện ngắn nhưng những công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông còn quá ít ỏi và mới chỉ là những bài viết, những ý kiến nhận xét chung chung hoặc chỉ tập trung nhận xét về hai truyện ngắn Làng và Vợ nhặt. Thật sự chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát, 8 có hệ thống đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Do đó luận văn chúng tôi không hẳn là hoàn toàn mới mẻ nhưng hi vọng sẽ góp thêm tiếng nói khẳng đònh vò trí xứng đáng của truyện ngắn Kim Lân trong văn học Việt Nam hiện đại. Luận văn của chúng tôi đã tiếp thu, vận dụng những ý kiến, đánh giá của các nhà nghiên cứu, đặt chúng vào trong một hệ thống chung khi khảo sát, phân tích, nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Khảo sát và nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, trước hết có ý nghóa thiết thực cho việc dạy và học tác phẩm Kim Lân trong nhà trường phổ thông. Đồng thời nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân cũng chính là góp phần nghiên cứu phong cách một tác giả cụ thể của văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở khảo sát, phân tích và nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi hy vọng luận văn góp một phần nhỏ khẳng đònh vò trí, vai trò của Kim Lân đối với sự nghiệp phát triển truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Phương pháp lo hình Để có thể xác lập được những luận điểm, những nhận đònh có sức thuyết phục, luận văn sẽ chú ý tới phương pháp loại hình để phân loại, thống kê các số liệu cụ thể một cách có hệ thống. Tất nhiên chúng tôi hiểu rằng, mọi con số trong nghiên cứu văn học nói chung và nhất là nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn chỉ mang tính chất tương đối. Phương pháp so sánh Nhằm phát hiện, khẳng đònh bản sắc riêng của truyện ngắn Kim Lân, luận văn của chúng tôi không thể không so sánh đối chiếu đặc điểm truyện ngắn của Kim Lân với đặc điểm truyện ngắn của một số nhà văn khác cùng thời, cùng viết về nông dân và nông thôn Việt Nam 9 Phương pháp phân tích, tổng hợp. Đây là một phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng tôi đã vận dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu văn, đoạn văn có tính chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm tổng hợp, trong luận văn. VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Cấu trúc luận văn ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, còn có phần nội dung gồm ba chương + Chương 1 Người lao động nghèo ở làng quê và tấm lòng của nhà văn Kim Lân. + Chương 2 Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật. + Chương 3 Ngôn ngữ và giọng điệu 10 Chương một NGƯỜI LAO ĐỘNG NGHÈO Ở LÀNG QUÊ VIỆT NAM VÀ TẤM LÒNG CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN . Hiện thực về làng quê Việt Nam và người lao động nghèo. Xã hội Việt Nam những năm 1940 – 1945 có rất nhiều biến động. Đây là thời kì tiền khởi nghiã, là đêm trước của Cách mạng tháng Tám. Hơn nữa, Nhật nhảy vào Đông Dương cấu kết với Pháp đàn áp phong trào cách mạng, bóc lột nông dân nên mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, quyết liệt. Hoàn cảnh lòch sử - xã hội đầy biến động ấy đã tác động lớn vào tất cả các khuynh hướng văn học, trong đó có văn học hiện thực. Thời kì này, các nhà văn hiện thực không thể phản ánh xã hội một cách trực diện mà phải lưạ chọn cách đi riêng viết về phong tục, tập quán đòa phương, đi sâu vào mối quan hệ làng xóm, gia đình với những câu chuyện thường ngày, thông qua số phận cá nhân khám phá thế giới nội tâm con người. Bên cạnh những cây bút già dặn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, trên văn đàn đã xuất hiện một đội ngũ nhà văn trẻ như Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tam Kính, Phi Vân, Mạnh Phú Tứ, Tô Hoài và Kim Lân….… Tuy nhiên, mỗi nhà văn ở mỗi hoàn cảnh, chòu sự ảnh hưởng của chủ nghóa Mác-Lê Nin ở mức độ khác nhau, có cách nhìn, cách cảm khác nhau. Do đó, các nhà văn khi viết về cuộc sống của dân quê đều có những cách tiếp cận riêng rẽ. Các nhà văn trên mỗi người một vẻ đã đem lại sự phong phú đa dạng và nhiều màu sắc mới cho văn học hiện thực 1940- 1945. Kim Lân cũng chọn và viết về đời sống của nông thôn Việt Nam nhưng ông không dẫm đạp lên lối mòn xưa cũ mà những đàn anh như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đã đi. Kim Lân chủ yếu tiếp cận làng quê từ bình diện phong tục, sinh hoạt văn hoá và 11 những câu chuyện bình dò hằng ngày. Nhà văn đã có những trang viết mô tả rất chân thực, tinh tế và sống động những thuần phong mỹ tục của người làng quê sau luỹ tre làng. Ông đã làm cho truyện ngắn của mình có cách hấp dẫn riêng từ chính những khám phá các giá trò văn hoá cổ truyền của vùng đất Kinh Bắc, quê hương ông. Phong tục và sinh hoạt văn hoá làng quê Bất kì một nhà văn nào khi viết về hiện thực làng quê không nhiều thì ít đều đề cập, miêu tả đến những yếu tố phong tục, sinh hoạt văn hóa làng xã. Bởi vì phong tục tập quán là cái đời thường, là đời sống tinh thần tồn tại và chi phối cuộc sống của người dân quê trong suốt chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian. Trong văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, người đọc rất thú vò khi tìm thấy những nét văn hóa riêng biệt, những phong tục tập quán mang đậm sắc màu đòa phương trong các tác phẩm văn học. Đó là một Hải Phòng náo nhiệt trong tác phẩm của Nguyên Hồng; một vùng ven đô Hà Nội của nhà văn Tô Hoài; một Bùi Hiển với tập tục cổ hủ của người dân chài xứ Nghệ; một xứ Huế mộng mơ, dòu dàng, với giọng hò ngọt ngào của nhà văn Thanh Tònh và một vùng sình lầy tận cùng phía Nam Tổ quốc của Phi Vân. Kim Lân cũng góp một mảng màu vào bức tranh phong tục dân tộc bằng những nét văn hóa đặc trưng đậm màu sắc dân gian từ chính cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của xứ sở Kinh Bắc quê hương ông. Truyện ngắn Kim Lân đã đem đến cho người đọc những thú vò bất ngờ và độc đáo. Tiếp cận hiện thực làng quê từ hướng phong tục, ông đã đưa những chuyện hàng ngày, những sinh hoạt văn hóa bình dò và cả những thói tục vốn có của làng quê nghìn đời trở thành đối tượng phản ánh và khám phá trong truyện ngắn của mình. Có thể nói trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã khẳng đònh mình trên văn đàn bằng những truyện ngắn viết về phong tục, sinh hoạt văn hoá làng quê. Chính sự tiếp cận này đã thể hiện ý thức nghệ thuật sâu sắc của nhà văn. Ý thức về giá trò văn hóa cổ truyền, ý thức bảo vệ, ngợi ca và tôn vinh sức sống, sức mạnh của văn hóa dân tộc Việt Nam. 12 Người Việt không ai không biết sự tích cây nêu nhưng tập tục đuổi tà trừ ma sống động, tươi rói sắc màu dân gian chỉ có thể được thưởng lãm qua trang viết của Kim Lân. Truyện ngắn Đuổi tà, ngay tựa đề cũng đã gợi lên sự tò mò về một tập tục kì lạ, ngộ nghónh nhưng lại rất quen thuộc của cư dân đồng bằng Bắc bộ. Bằng sự quan sát sắc sảo, cái nhìn hóm hỉnh và cảm thông, Kim Lân dường như hoá thân vào trang viết. Ông miêu tả khá tỉ mỉ, tường tận từ việc sắp đặt đồ lễ cúng tế cho đến việc tiến hành lễ nghi. Việc đuổi tà hàng năm “có ảnh hưởng đến sự thònh đạt, suy vi của dân làng sang năm mới tới đây”. Rõ ràng đây là một thuần phong mó tục vì một mục đích cao cả, thể hiện ước muốn về một cuộc sống bình an, thònh vượng trong tương lai. Một tập tục đã trở thành cố hữu mà dân làng ai cũng vui vẻ đóng góp thì tập tục đó đã gắn bó, ăn sâu bám rễ vào đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của người dân quê. Chẳng thế mà khi buổi lễ tiến hành, mọi người đều hào hứng tham gia “ông Tự Năm cầm cành phan chạy ra đường cái. Bốn cậu nhà oản với bốn chiếc bùa cái cũng lẽo đẽo theo sau. Mấy bác tuần vừa quất vừa ném gạo muối đuổi. Trẻ con, người lớn à à theo sau reo hò ầm ó. Có người lượm đất, gạch ném theo sau. Họ tin như thế là đang trục ma đói, ma khát ra khỏi làng, năm mới tới đây dân làng làm ăn mới thònh đạt ” [62, 133]. Đuổi tà không phải là một truyện ngắn có đề tài phục cổ như Bút nghiên của Chu Thiên, Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan cũng không phải là tác phẩm có ý nghóa đả phá hủ tục như Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố. Cái hay của truyện ngắn Đuổi tà chính là tập tục độc đáo được Kim Lân miêu tả gắn liền với niềm vui, nỗi háo hức trong không khí thiêng liêng đón tết cổ truyền của dân tộc “Mọi người như yên lặng kính cẩn đón chờ cái năm mới rỡ ràng”. Yêu quê hương, gắn bó và tự hào về quê hương, nhà văn Kim Lân đã hiểu hết ý nghóa sâu sắc của tết Nguyên đán đối với mỗi người dân đất Việt. Tết là khoảng thời gian thể hiện đời sống tâm linh trong quan niệm tín ngưỡng đa thần của người Việt. Việc đuổi tà đầu năm là một thuần phong mó tục có ý nghóa nhân văn cao cả, là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm của các thành viên 13 trong cộng đồng với một niềm tin thiêng liêng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân quê. Đi vào hiện thực làng quê từ bình diện phong tục, Kim Lân đã tiếp cận với con người làng quê mang bản sắc văn hóa làng truyền thống. Hình ảnh người nông dân trên trang viết của Kim Lân khác xa với hình ảnh người nông dân dưới ngòi bút miêu tả của Tự lực Văn đoàn. Họ không phải là những con người nghèo đói đến mức ngu dốt, bẩn thỉu như Nhất Linh đã viết trong Hai vẻ đẹp “Mỗi lần nhìn những người nhà quê nhem nhuốm ngồi bệt xuống đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo tèo mấy thứ quà vặt bẩn thỉu, đầy cát bụi và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi người lẫn với trăm nghìn thức mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cái cảm tưởng khó chòu về sự bất di bất dòch của những xã hội quê, bao giờ cũng khốn nạn, cũng xơ xác”. Đó là cái nhìn miệt thò có pha chút thương hại của tác giả Tự lực Văn đoàn. Những người vốn là các nhà văn Tây học, sống và lớn lên ở đô thò, trách sao được khi họ có cái nhìn phiến diện như thế đối với người nông dân. Do vậy tiểu thuyết luận đề mà họ đưa ra cũng chỉ mang tính chất cải lương nửa vời. Với Kim Lân thì hoàn toàn khác, ông viết về người nông dân bằng những tình cảm chân thật, tha thiết của “người con vốn sinh ra từ đồng ruộng”. Người nông dân trên trang viết của Kim Lân không chỉ là người lao động suốt ngày “đầu tắt mặt tối”, “cày sâu cuốc bẫm” mà họ còn là những con người thông minh, tài hoa, say mê, vui nhộn trong những sinh hoạt văn hoá, những thú chơi lành mạnh chốn hương thôn. Khác với những nhà văn cũng viết về phong tục như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, truyện ngắn Kim Lân trình bày miêu tả những sinh hoạt văn hóa ngộ nghónh, đáng yêu. Ở đó người đọc không bắt gặp cái lo âu, sợï hãi vì gánh nặng của lệ làng, của hủ tục. Người nông dân hòa vui vào không khí tưng bừng của lễ hội, đình đám để quên hết mọi âu lo, vất vả của cuộc sống thường ngày. Đọc truyện ngắn Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quag Khải - Trạng vật, Ông Cản Ngũ, người đọc cảm nhận một không khí làng quê nhộn nhòp, vui tươi khác xa với 14 làng quê nhàn nhạt buồn thường thấy trong các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh. Với tài viết truyện ngắn của mình, Kim Lân đã giới thiệu đến bạn đọc những chiêu võ đẹp, thế võ hay của môn đấu vật cổ truyền dân tộc. Hòa mình vào không khí lễ hội náo nức, sôi động để thưởng lãm, để bình xét. Hội vật tổ chức ở Kinh đô thì “cờ xí, tàn quạt rợp trời. Nam phụ lão ấu đứng vây quanh xem đông như kiến cỏ” [62,118]. Hội vật ở làng tỉnh cũng đông vui rộn ràng “Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Người ta chen lấn nhau, quây kín quanh sới vật” [62, 287]. Nếu tranh dân gian đấu vật của làng Đông Hồ là bức tranh tónh thì những trang viết của Kim Lân về môn vật lại là bức tranh động, rực rỡ sắc màu dân gian, rộn rã âm thanh, đa dạng về góc cạnh “Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô vật trong tỉnh cởi trần đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng cạp điều. Người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt. Đầu ông buộc một vuông màu xanh lục giữ tóc, mình trần đóng khố, bao khăn vắt ” [62,288]. Không chỉ miêu tả chân thực, sống động cách thức, trang phục mà Kim Lân còn am hiểu cả cử chỉ, hành động đầy khí khái của đô vật“bước ra sới, xóc lại mảnh khố nhiễu xanh, tiến lên thềm tam đền, giơ bàn tay thô vụng vuốt dài trên mấy vuông giải nhất, miệng cừơi rất tươi ” [62, 288] là dấu hiệu thách thức, quyết tâm giành giải của đô vật trước khi vào kèo. Nếu ngòi bút Nam Cao chủ yếu thiên về kể hơn là miêu tả, Thạch Lam ngược lại tả nhiều hơn kể, thì Kim Lân lại khéo léo hài hoà vừa tả vừa kể. Những keo vật đẹp mắt, những thế vật bất ngờ hồi hộp được Kim Lân miêu tả như khắc như chạm. Ngòi bút của Kim Lân như một ống kính quay cận cảnh rõ nét đến từng chi tiết “ Quắm Đen như con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông bóc lên. Nhưng ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bỗng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ một con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy” [62,290]. Mượn ngôn ngữ điện ảnh, Kim Lân đã làm sống dậy trong lòng người đọc những cảm giác hồi hộp lo 15 âu, mừng vui như đang trực tiếp tham gia cổ vũ cho những keo vật đẹp mắt. Tác giả như hoá thân vào những đô vật để đem tới những cảm nhận rất thực “Trạng Sặc lúng túng xoay xoả. Chỉ một lúc là ù tai hoa mắt. Mồ hôi đổ ra như tắm. Chân tay cuống quýt, đánh gỡ lạo chạo. Trạng Kế nhanh cơ hội đưa tay phải lên bấu chặt lấy quai xanh, còn tay trái vít gáy kẻ đòch ghìm xuống. Trạng Sặc vùng vẫy cố gỡ nhưng không sao thoát được năm ngón tay như thép nguội kẹp chặt lấy xương quai xanh. Da dẻ trạng Sặc tái dần tái dần và toàn thân run lên bần bật” [62, 120]. Không am hiểu và yêu môn vật truyền thống, tác giả khó có thể miêu tả được như thế! Trân trọng nâng niu các giá trò văn hoá cổ truyền, Kim Lân không thể để mất đi những thú chơi lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc. Những truyện ngắn Kim Lân viết về môn võ vật như món quà quê giúp bạn đọc thưỡng lãm một thú chơi dân dã của người Việt, vừa để cổ vũ khích lệ cho môn vật cổ truyền của dân tộc. Truyện Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật, Ông Cản Ngũ là những truyện ngắn Kim Lân lấy cảm hứng từ đề tài lòch sử, với tinh thần suy tôn những gía trò văn hóa dân gian đậm màu sắc dân tộc. Cách khai thác truyện thông minh, tài hoa, kết hợp hài hoà giữa qúa khứ và hiện đại, ngôn từ vừa trau chuốt, vừa giản dò bình dân đã đem đến cho những truyện ngắn trên của Kim Lân vẻ đẹp riêng độc đáo. Kim Lân là người con của xứ sở Kinh Bắc, được thụ hưởng và nuôi dưỡng bởi dòng sữa ngọt của văn hóa làng quê, ý thức về giá trò văn hoá cổ truyền luôn tuôn chảy trong sáng tác của ông. Kim Lân hiểu việc cần phải làm để giữ gìn và phát huy văn hoá cổ truyền của dân tộc. Ngoài những truyện ngắn viết về đánh vật, Kim Lân đi sâu thể hiện những thuần phong mó tục qua những thú chơi đồng quê khác như trồng cây cảnh, nuôi gà chọi, thả chim bồ câu Có thể nói các truyện ngắn Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn là những truyện ngắn thành công nhất viết về đề tài này. Nhận xét những truyện ngắn viết về các thú chơi của Kim Lân, nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong Từ điển Văn học khẳng đònh “Tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ 16 đẹp tâm hồn của người dân trước Cách mạng- những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh và tài hoa” [113,360]. Truyện ngắn viết về phong tục và các thú tiêu khiển nếu không khéo sẽ dễ sa vào những trang khảo cứu. Khác với Toan nh, Kim Lân không khảo sát phong tục mà mô tả phong tục bằng con mắt cuả một nhà văn. Đằng sau những sinh hoạt văn hóa, những thú chơi đồng quê là cuộc sống sinh động như vốn có, chằng chòt nhiều mối quan hệ trong cộng đồng làng xã. Truyện ngắn Kim Lân viết về đề tài trên mang phong vò riêng độc đáo, hấp dẫn bởi vì trong đó còn có sự thấp thoáng, ẩn hiện “cái tôi” nhà văn tài hoa, thông minh hóm hỉnh. Trong An ninh cuối tháng số 34 – năm 2004, trả lời phỏng vấn báo chí, Kim Lân cho rằng “Trước tôi cứ nghó những truyện mà tôi viết có tính chất xã hội thì tôi cho là hay. Còn những truyện mà viết những cái chơi chim, chơi gà, chơi chó săn, chơi này nọ là không hay. Thế nhưng, bây giờ tôi đọc lại cái mình viết về chim, về chó lại tử tế vì mình hiểu nó và yêu nó”. Thật vậy, truyện viết về thuần phong mó tục qua các thú chơi đồng quê, Kim Lân viết bằng tất cả vốn sống dày dặn, sự tài hoa và đam mê nhiệt tình của mình. Nhà văn hóa thân, nhập vai vào nhân vật khá tài tình khiến người đọc băn khoăn tự hỏi đâu là nhân vật, đâu là nhà văn? Ở truyện ngắn Con mã mái, là hình ảnh ông cả Chuẩn - một nhà nho nghèo “danh lợi bất như nhàn” yêu thích thú chơi cây cảnh nhàn nhã thanh tao. Tuy gia cảnh nghèo túng, chỉ có một “mảnh sân nhỏ, ba gian nhà tranh lụp xụp” nhưng “bần thanh còn hơn trọc phú”. Với bàn tay khéo léo, óc thẩm mó và tài sáng tạo, ông đã tạo nên “một hòn non bộ sần sùi, gân guốc. Cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu, bí mật đối với bọn người sành nhỏ bé đặt theo điển tích. Nào chùa, nào tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở, nào ngư, tiều, canh, độc, cầm kì thi tửu, nào Bá Nha ngộ Tử Kì, tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài” [62,58]. Một thế giới ảo nhưng sinh động kì thú. Sơn, thuỷ, canh, tiều, ngư, độc, cận kề sum vầy bên nhau. Cảnh vật dẫu vô tri vô giác nhưng sống động bởi gửi gắm vào đó tâm hồn tình cảm của chủ nhân. Cả Chuẩn nếu không có tâm hồn nghệ só yêu cái đẹp, am hiểu nghệ thuật thì làm sao có 17 thể tạo nên được một hòn non bộ đẹp như thế. Rồi lại còn tạo một dáng cây “kiểu long cuốn thuỷ” mà ai cũng trầm trồ thán phục. Trong truyện ngắn của Kim Lân, ta bắt gặp hình ảnh người nông dân không chỉ biết “cày sâu cuốc bẫm” vì cơm no áo ấm mà ở họ còn dậy lên một khát vọng mãnh liệt về cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh và tươi đẹp. Cuộc sống trở nên đáng yêu, có ý nghóa hơn khi Cả Chuẩn, Trưởng Thuận, Cả Nội đặt hết niềm tin vào thú chơi cầu kì, công phu của mình. Ông Cả Chuẩn “mê thích gà chọi suốt ngày chỉ lăn lóc với gà”, Cả Nội “nổi tiếng là tay chơi chó săn lão luyện” còn Trưởng Thuận thì khéo léo tài hoa trong cách nuôi và thả chim bồ câu. Dường như những người nông dân này đã gửi gắm tất cả niềm vui, nỗi buồn vào các thú chơi tao nhã, lành mạnh như những nghệ só trong sáng tạo nghệ thuật. Cụ Tú, ông Trưởng Thuận tinh từơng, tài nghệ ngay từ việc lựa chọn giống chim hay “Tinh! Trưởng Thuận tinh lắm! Cào bò ấy kháp với nhau không tách ra được. Ngừng một chút, cụ Tú tiếp Phàm giả cái giống chim Văn Giàng này cứ con nào “cào” nhọn là bay cao, con nào “bò” to là đông đen. Đôi chim này được cả “cào” lẫn “bò” [62,36]. Sự khen thưởng, thán phục của cụ Tú chính là sự đồng điệu của nhân vật cụ Tú, ông Trưởng thuận và cả nhà văn Kim Lân. Họ gặp nhau ở điểm chung đều say mê, tài hoa, am hiểu tường tận thú chơi tao nhã. Chỉ ngắm nhìn mã bên ngoài của đôi chim mà biết được lối bay, cái hay cái dở của giống chim Văn Giàng. Chơi chim bồ câu đòi hỏi người chơi phải là người kiên nhẫn, lanh lẹ, khéo léo. Hãy quan sát cách thả chim của Trưởng Thuận “Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu đấy, rồi mới quày tay ra sau lưng rút chiếc quạt cạp quần, se sẽ đập vào nan lồng. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa, ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phanh phách” [62, 39]. Bằng sự quan sát và vốn sống thực tế, Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự điệu nghệ, khéo léo trong cách thả chim của Cả Thuận. Bởi nếu không biết cách thả“một hai con chim sẽ bò vướng vào lồng hoặc do chủ nhân đập mạnh vào lồng, con chim có 18 thể bò choáng váng đứng lại ở đế lồng không bay kòp theo đàn, lẽ tất nhiên đàn chim này không bao giờ trúng giải” [1,198]. Thả chim bồ câu là một thú chơi có từ xa xưa. Các cụ ta ngày xưa yêu chuộng thú thả chim bồ câu vì chúng là loại “nghóa điểu” trung thành, có tình có nghóa. Hội thi thả chim bồ câu là một thú chơi đồng quê có ý nghóa giáo dục sâu sắc và tế nhò về tinh thần tập thể, về đức tính chung thuỷ của con người. Vì lẽ đó Kim Lân say mê và muốn san sẻ niềm đam mê ấy để mọi người cùng thưởng thức về thú chơi thanh tao này. Xưa nay, trong các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam, người đọc thường chỉ thấy hình ảnh người nông dân lam lũ, nghèo khổ và dốt nát. Bên cạnh cuộc sống đói nghèo của họ, Kim Lân phát hiện ra đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh của họ. Nhà văn không hề tô hồng, trau chuốt hình ảnh người nông dân trên trang viết của mình. Ông viết rất thật về họ như viết về chính bản thân mình. Kim Lân viết từ vốn sống, sự am hiểu, gắn bó gần gũi của một người con làng quê với những người làng quê. Có thể nói, Kim Lân là cây bút truyện ngắn gắn bó sâu sắc và am hiêủ tường tận cuộc sống nông thôn, truyện của ông thường giàu chất liệu hiện thực. Cảnh nông thôn với không khí sinh hoạt văn hoá đầm ấm, đậm đà tình làng nghóa xóm hiện lên bình dò trong từng trang viết của ông. Ngay sau khi “cái tiếng quần chim của Trưởng Thuận ăn khao liên tam trúng, nức cả hàng phủ”, dân làng kéo đến nhà ông Trưởng rất đông “họ cười nói xôn xao cả năm gian nhà khách”. Cũng như nhà Trưởng Thuận, nhà ông Cả Chuẩn trước khi chuẩn bò đem gà đi thi “hội Nhân Thọ”cũng nườm nượp “khách mỗi lúc mỗi thêm đông”. Gian nhà tuy lụp xụp, chật chội nhưng vui vẻ ồn ào “tiếng cười, tiếng nói xôn xao ầm ó”. Dẫu cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, vất vả nhưng đời sống tinh thần của người dân quê thật phong phú, tươi tắn. Họ có thể ngồi “ngửa mặt lên trời xem mê man” và say sưa ngắm nhìn đàn chim bay “quên cả sức nóng thiêu người của trưa mùa hạ”. Họ có thể mải mê bàn tán chuyện chọn gà, chăm gà, luyện gà trong một không khí vui vẻ, giòn giã tiếng cười hóm hỉnh “ Con sám miến hồng mới thích chứ. Chết! Nó đá cứ vun vút “liên chi thanh nguyệt chi công”. Nhắc chân lên là 19 thành cần cao. Đầu cong thon thon né đòn rất tài,… chao bên này! Chao bên này! Cứ thoăn thoắt ! Coi sướng lạ !” [62,85]. Ở đây, người đọc bắt gặp trong trang viết của Kim Lân hình ảnh người nông dân hiền lành, chất phác nhưng không kém phần thông minh, tài hoa và dí dỏm. Tiếp cận hiện thực làng quê từ bình diện phong tục, Kim Lân đã khẳng đònh sức sống của truyền thống đạo lý dân tộc qua những sinh hoạt văn hoá làng quê. Kim Lân hiểu rằng nền tảng gia đình là gốc rễ, là điều kiện để người dân quê thực sự sống với niềm vui của chính mình qua những thú chơi tao nhã. Ở truyện Con mã mái, nếu không có sự chòu thương chòu khó của bà Cả và cô Tưởng thì làm sao ông Cả Chuẩn “mê gà chọi” sống hết mình cho thú chơi ấy. Hình ảnh bà Cả Chuẩn không khỏi làm người đọc liên tưởng đến hình ảnh người vợ chu toàn, đảm đang “nuôi đủ năm con với một chồng” của Tú Xương. Trong hơn 37 trang sách của truyện, Kim Lân chỉ dành một câu nói về bà “Đầu tối mặt tắt, ngược xuôi tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình”[62,60]. Chỉ một câu cũng đủ ca ngợi đức tính chòu thương chòu khó, cần mẫn của bà Cả Chuẩn. Với phong cách của một nhà văn phong tục, Kim Lân hiểu rất rõ cái tình, cái cội rễ lâu bền trong truyền thống tình cảm, đạo lý phu thê của người Việt. Nếu không có sự tận tụy, hi sinh của vợ làm sao Cả Chuẩn thảnh thơi để tiêu khiển bên cây cảnh và thú chọi gà. Ở truyện Đôi chim thành, bà Trưởng Thuận cũng vậy, chưa bao giờ than vãn trước thú chơi chim bồ câu đến quên ăn, quên nghỉ của Cả Thuận. Nếu có cũng chỉ một câu trách móc nhẹ nhàng, chứa chan tình yêu thương dành cho chồng “Chim với chả cò. Đày nắng suốt ngày, không trách cảm được!”[ Từ tình cảm, quan hệ trong gia đình, Kim Lân đi sâu khám phá tình cảm cộng đồng, tình làng nghóa xóm vốn bền chặt của người nông dân ở làng quê qua hội hè và những thú vui tiêu khiển. Trong truyện Đôi chim thành, ông Trưởng Thuận dẫu biết trời hôm đó chắc sẽ có dông vì trời xấu “vừa oi vừa có gió Tây”, tiết trời như thế nếu thả chim, mưa gió có thể làm đàn chim lạc mất. Nhưng vì nể nang tình cảm chân tình, 20 ngưỡng mộ quần chim hay của bà con dân làng, ông đã “không ngần ngại thả đàn chim” để mọi người được thưởng lãm và bình giá. Việc làm của Cả Chuẩn thể hiện nét đẹp trong cư xử thân tình của người dân quê. Tình cảm tốt đẹp đó của người làng quê được Kim Lân thể hiện sắc sảo không phải chỉ bằng sự quan sát tinh tế mà bằng cả tâm hồn và trái tim nhân hậu của một người con sinh ra từ đồng ruộng. Trong bức tranh phong tục dân gian với những tập quán ngộ nghónh, những thú chơi tao nhã như đánh vật, chọi gà, thả chim, nhà văn Kim Lân đã thể hiện niềm tự tôn, tự hào về văn hoá cổ truyền của dân tộc một cách kín đáo và tinh tế. Truyện ngắn của Kim Lân đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về sợi dây ràng buộc giữa những thành viên trong cộng đồng làng xã qua sinh hoạt văn hoá, qua những phong tục tập quán. Đây chính là nét riêng độc đáo của Kim Lân so với các nhà văn cũng tiếp cận làng quê từ hướng phong tục. Kim Lân theo thời gian, không gian của những làng quê thân quen để tìm hiểu con người, đời sống tinh thần của người dân quê qua lối cũ nếp xưa nhuần nhụy. Chẳng thế, mà trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, Lữ Huy Nguyên đã đánh giá “Kim Lân là người đã thành công trong một loạt truyện về thú chơi. Đặc biệt ông nổi tiếng với các truyện viết về phong tục làng quê” [62,19]. .Những mảnh đời “đầu thừa đuôi thẹo” Con người bao giờ cũng là đối tượng chính trong tác phẩm văn học. Cuộc sống thiên hình vạn trạng, niềm vui luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tối và cái xấu len lỏi giữa cái tốt, hạnh phúc xen lẫn nỗi đau. Và những khổ đau, bất hạnh của con người xưa nay vốn là nỗi bức xúc lớn nhất thôi thúc người nghệ só cầm bút. Kim Lân đã bước vào con đường văn học với một sự thôi thúc như thế. Khi Kim Lân đến với văn chương chính là lúc xã hội Việt Nam ngột ngạt, bế tắc và đầy biến động. Đời sống người nông dân khốn đốn trăm bề. Nạn đói, nạn sưu thuế, lũ lụt, hạn hán, dồn dập ập xuống thân phận bé nhỏ của ngừơi lao động nghèo. Xuất thân trong 21 một hoàn cảnh éo le, con một người vợ lẽ thứ ba nghèo túng, không ruộng đất, làm thuê làm mướn khắp nơi, Kim Lân ý thức rất rõ về cuộc sống mòn mỏi, lắt lay, cơ cực của những người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Nhà văn chú tâm vào những cảnh đời cụ thể, chọn một khoảng khắc tiêu biểu trong cuộc sống của nhân vật để miêu tả nhưng chất liệu hiện thực cứ ngồn ngộn trong từng trang viết của ông. Kim Lân đã đem đến cho người đọc sự cảm thông, tình yêu thương xen lẫn nỗi chua xót, đắng cay về thân phận của những con người bé nhỏ dưới chế độ cũ. Ông thấy rõ họ là “ Những con người bò cái đói nghèo đoạ đầy cho đến thành tàn tật, thành ngớ ngẩn”. Kim Lân sáng tác truyện ngắn của mình bằng cảm hứng dạt dào yêu thương của một trái tim nhận hậu và tấm lòng rộng mở vì những người lao động nghèo. Truyện ngắn của ông đúng như lời nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh “Là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ khắp các xó xỉnh tối khuất lên mặt giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình” [73,369]. Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn đầu tay, khẳng đònh chỗ đứng của nhà văn trên văn đàn. Tác phẩm mang tính chất tự truyện. Cuộc đời đói nghèo, thận phận hẩm hiu của mẹ con Tư chính là phiên bản về cuộc đời, thân phận của hai mẹ con nhà văn. Mẹ của Tư là người phụ nữ cần mẫn, chòu thương chòu khó nhưng lại là nạn nhân của chế độ đa thê. Bà là người vợ lẽ thứ ba, cuộc hôn nhân của bà không có tình yêu. Thân phận lẽ mọn của chế độ đa thê đã cay cực, tủi nhục mà ngay đến con cái họ cũng bò ruồng bỏ hắt hủi. Tư sống giữa gia đình mà như không có gia đình, anh em, họ mạc đều thờ ơ với Tư. Cái đói quay, đói quắt không chỉ hành hạ Tư về thể xác mà còn xoáy sâu vào tâm can Tư một ý nghóa chua chát về thân phận bèo bọt của mình “Làm một thằng con người vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là một thằng thừa trong gia đình” [62, 27]. Quả là cuộc đời thật oái oăm ! Hiện thực cuộc sống luôn hiền hòa, ưu ái với một số ít người giàu sang nhưng lại khắc nghiệt, tàn nhẫn với số đông người nghèo. Chính cuộc đời khổ đau, chòu thiệt thòi như nhân vật trong tác phẩm tự truyện này, mà 22 Kim Lân đã ý thức sâu sắc hơn về thân phận cơ cực của những ngừơi lao động nghèo trước Cách mạng. Từ thân phận hẩm hiu của mẹ mình, Kim Lân thấu hiểu và thông cảm với số phận của những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội cũ. Họ là “nô lệ của nô lệ”, họ thường là nạn nhân của chế độ đa thê bò tước đoạt quyền quyết đònh hạnh phúc của mình. Không chỉ những thân phận làm lẽ phải chòu thiệt thòi cay đắng, mà ngay cả khi làm vợ cả cũng phải chòu bao nhiêu tủi nhục vì số phận hẩm hiu. Đó là tình cảnh của Cẩn trong truyện ngắn Bà mẹ Cẩn. Cuộc đời chồng con của Cẩn chòu nhiều đau khổ, dở dang. Người ta cưới Cẩn về không phải để làm vợ, mà thực chất làm một con hầu không công. Chồng Cẩn là “Một thằng bé sún răng và mũi lúc nào cũng chảy tận mồm”[62, 509]. Suốt ngày Cẩn quần quật, đầu tắt mặt tối lo hầu hạ bố mẹ chồng, chăm bẵm chồng. Đến khi chồng trở thành “anh lực điền, khoẻ mạnh” lại chê Cẩn già xấu xí, “bỏ đi cưới vợ lẽ”. Trong một lần, ngoài ý muốn, người chồng đã để lại cho Cẩn một đứa con. Thế là Cẩn phải chòu bao nhiêu khổ sở vì đòn ghen tuông trái ngược của người vợ lẽ. Chế độ đa thê và nạn tảo hôn là cái ách đã trói buộc cuộc đời Cẩn vào trong khổ đau, nhục nhã. Tiếp nối mạch cảm xúc về những mảnh đời khổ đau của người phụ nữ là nhân vật cô Vòa trong truyện ngắn cùng tên. Vòa chòu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm gia đình ngay từ lúc còn bé nhỏ. Mẹ chết, cha lấy kế mẫu. Cô phải sống kiếp mẹ ghẻ con chồng, bò hành hạ khổ sở “dưới quyền hành độc ác” của người mẹ kế. Năm 10 tuổi, người cha - chỗ dựa tinh thần của cô cũng rời bỏ cô sau một trận ốm ngã nước “rừng thiêng nước độc”. Mới 10 tuổi đầu, cô bò đánh đập hành hạ “da diết suốt ngày”, cơm ăn không đủ no, đêm ngủ không tròn giấc. May nhờ có ông anh họ đem về cưu mang. Rồi cô cũng có một gánh hàng xén nho nhỏ tuy không dư dả cũng đủ nuôi sống qua ngày. Nhưng sự đời nào đâu có thể bình lặng với những ước muốn, khát khao bình dò của cô. Thiếu thốn tình cảm gia đình từ thû nhỏ, cô khao khát một mái ấm gia đình. 23 Nhưng cô đã rơi vào bẫy tình của một chàng họ Sở. Cú sốc bò lừa tình đã cướp hết ở cô cái xuân thì tuổi hai mươi. Cô trở nên thân tàn ma dại “Mắt trắng dã giương lên lại nhìn xuống, da vàng xủm bấm ra nước. Cái váy đụp cũn cỡn để hở mấy vết chó cắn. Nước vàng rỉ ra loang lổ đọng lại trên cặp chân gầy guộc” [53, 25]. Nhưng nấc thang về cuộc đời khổ đau của Vòa chưa dừng lại ở đó. Sau lần vấp ngã, cô được gia đình anh họ tìm về lo lắng thuốc thang, cô luôn có ảo tưởng được làm vợ Phán Đường, sống một cuộc sống giàu sang, hạnh phúc. Nhưng khát khao của cô cũng chỉ là một giấc mơ, nó cũng giống như lời nói đùa của Ứng, không bao giờ là sự thật. Con đường tìm đến hạnh phúc gia đình tắt ngấm, cô trở nên điên dại. Bộ dạng lúc nào cũng lôi thôi lếch thếch, miệng nghêu ngao hát “Ăn mày là ai ? Ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày, xừ xang xê ứ ư ...” [ 53,25]. Truyện kết thúc trong cái chết tội nghiệp của Vòa trên con đường kiếm tìm hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc của một mái ấm gia đình. Cái chết của Vòa như một hồi chuông nguyện cầu hãy rủ lòng yêu thương con người. Nếu không có tình yêu thương, con người sẽ dễ dàng rơi vào hố thẳm chông chênh của cái chết mà lằn ranh mỏng manh là kiếp sống ăn mày lang thang. Có thể nói, nhân vật nữ trong truyện ngắn Kim Lân đại diện cho những mảnh đời xót xa, cay đắng của phụ nữ nông thôn bò “quan niệm”, lề thói xã hội “ăn cắp” mất bản ngã của mình. Hiện thực cuộc sống đa dạng phong phú, nên có khá nhiềâu “lát cắt”, khá nhiều những mảnh đời khổ đau khác nhau trong truyện ngắn Kim Lân. Dường như các nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” đều gửi đại diện của họ vào trong truyện ngắn của Kim Lân. Ở truyện Anh chàng hiệp só gỗ những mảnh đời khốn khó được hiện lên qua giọng văn đầy trăn trở, yêu thương của nhà văn. Đó là cảnh đời cô đơn, nghèo khó của ông lão làm nghề múa rối rong. Năm tận tháng cùng, một mình côi cút thân già “đẩy cái xe gỗ lọc cọc đi tha phương cầu thực”. Đó là nỗi niềm ai oán, cùng cực của 24 lão ăn mày mù loà. Lão có một con chó vàng rất khôn ngoan. Ngày ngày con chó “vẫn dắt ông lang thang khắp chợ ăn xin, đêm về hai thầy trò lại ôm nhau ngủ dưới gốc đa ngoài quán trọ” [62,35]. Con chó là người bạn chung thuỷ của ông, cùng ông kiếm sống và giúp ông vượt qua những tháng năm cuối cùng của tuổi già. Nhưng một “kẻ ác tâm nào đó” đã đánh bả con chó của ông lão “cướp đi cái nguồn sống và tình yêu thương cuối cùng của con người tàn tật ấy”[62,35]. Tài năng của một nhà văn thường là ở chỗ cảm được, nghe được, nhìn thấy được ý nghóa sâu xa trong những việc bình thường nhỏ nhặt. Đúng vậy, truyện ngắn Kim Lân không viết về những vấn đề to tát mà truyện của ông bắt nguồn từ những cái vụn vặt, bình thường trong cuộc sống của người lao động nghèo. Nhưng chính từ những cái bình thường, vụn vặt ấy lại là những cái chân thực nhất của cuộc sống. Truyện của Kim Lân vì thế đem đến sự gần gũi và đồng cảm sâu sắc. Đó cũng chính là nét độc đáo, hấp dẫn riêng của tác phẩm Kim Lân. Trước Cách mạng tháng Tám, thân phận bé nhỏ của người lao động nghèo trở nên rẻ rúng, khốn khổ hơn trong cảnh đói. Cái đói đeo bám, hành hạ họ khổ sở về mặt thể xác, đắng cay về mặt tinh thần. Ngô Tất Tố, Nam Cao có nhiều tác phẩm viết về cái đói. Trong những truyện ngắn Một ổ chó và một đứa con, Cái bánh chưng, Mớ rau trong hòm, Ngô Tất Tố viết cảnh đói khát tuyệt vọng ở quê hương ông. Nhà văn cất lên tiếng kêu đầy đau xót phẫn nộ hãy cứu đói cho người nông dân. Với những truyện ngắn Một bữa no, Tư cách mõ, Trẻ em không ăn được thòt chó, Nam Cao đã viết về miếng ăn của những người đói. Và tác giả đã gióng lên hồi chuông hãy cứu lấy nhân phẩm, nhân cách con ngừơi đang bò cái đói và miếng ăn huỷ hoại, tha hóa đi. Truyện ngắn Kim Lân cũng xoay quanh nỗi khốn khổ vì đói của những người lao động nghèo, những người nông dân thấp cổ bé họng. Cái đói trong truyện ngắn Ngô Tất Tố, Nam Cao làm chúng ta xót xa thương cảm. Cái đói và cái chết trong trên ngắn Kim Lân lại làm ta rụng rời, khủng khiếp.
truyện ngắn kim lân