Doisongphapluat: Bình Dương: Hỗn chiến kinh hoàng trong đêm, 2 người tử vong tại chỗ , Congantphcm: Hai nhóm thanh niên hỗn chiến kinh hoàng, 2 người chết, nhiều người bị thương
Người kiến tạo hòa bình đích thực là người biết yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, từ cá nhân, cộng đoàn cho đến đặc tính siêu việt. A: B:(Tiếp theo phần 1) 4. Nẻo đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình, trên hết cần phải tôn trọng sự sống con n
+Nhà trong Quan Nhân 63m, 5 tầng, Mặt tiền 5.8 m giá chỉ 8 tỷ.+NHÀ MỚI - MẶT TIỀN SIÊU RỘNG - MẶT NGÕ 3M - KINH DOANH - VĂN PHÒNGNhà 5 tầng xây mới: Nhà thiết kế hiện đại siêu đẹp- T1: Để xe +
Ý nghĩa của bài toán tụng tởm cầu khôn cùng cho những người mới mất. Có tác dụng cảnh báo fan bắt đầu mất nên buông bỏ, tránh việc bịn rịn thế gian cùng hãy hướng vai trung phong vào phần đa điều thiện để được sinh vào cõi lành. Có tính năng sám ăn năn lầm lỗi
Mỗi một bài kinh cầu siêu khác nhau sẽ có những mục đích khác nhau. Một bài kinh cầu siêu cho người chết là cách để cho vong linh của hộ nhất tâm bất loạn, khiến cho linh hồn khai tâm và theo đó chú tâm niệm phật, vãng sinh. Phỏng theo phật học bắc tông đọc kinh Địa
Fast Money. Tụng kinh cho người mới mất là việc ai cũng có thể làm. Chỉ cần trong suốt thời gian bao nhiêu ngày tụng kinh đó Bạn ăn chay, giữ ngũ giới, kiêng cử Ngũ vị tân và có một nơi sạch sẽ, yên tĩnh là được. Vong linh nhờ nơi công đức tụng kinh này sẽ sớm được vãng sanh về cõi lành. Lại bạn tự mình tụng kinh cho người thân là tốt nhất, đừng nhờ thầy gọi thợ làm chi, tốn kém và chẳng ích lợi gì cho người đã khuất đâu. Tại sao thế? Bởi thời mạt pháp này thỉnh được bậc tu hành chân chính đến giúp là vô cùng khó. Đa phần tụng kinh đám là để lấy tiền. Mà người tụng đã dính vào danh lợi thì tâm không chí thành, tâm không chí thành thì tụng kinh không thể cảm ứng được! Thời gian gần đây nhiều bạn đọc nhắn hỏi về vấn đề này. Mỗi người một hoàn cảnh, một thắc mắc riêng, nhưng tựu trung lại đều là người sơ cơ nên không nắm vững được phương pháp…Nguyện người hữu duyên đọc bài này mà nắm rõ được phương pháp; lại phát tâm chân chánh học Phật để người còn lẫn người mất cùng được lợi lạc, cùng lìa khổ được vui! Kinh Địa Tạng. Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Cách niệm Phật tại nhà. Cách tụng kinh tại nhà. Thế nào là Tự lực và Tha lực. Cách trị khóc dạ đề linh nghiệm nhất. Hành Dịch Bệnh quỷ vương Lệ Quỷ Cách tụng kinh cho người mới mất * Người thân của ta mới mất đi, ta đau lòng, thương tiếc, ta muốn làm điều gì đó lợi lạc cho người đã khuất mà chẳng biết làm gì hoặc làm thế nào là tốt nhất cho họ. Ta cũng chưa bao giờ biết được rằng Họ đang tột cùng trong nỗi hoang mang, cô đơn và đói khổ! Họ chỉ mong con cháu có thể làm điều gì đó giúp đỡ cho họ mà vô phương báo cho chúng biết. “Bởi chúng cũng như ta, lúc còn sống luôn nghĩ rằng chết là hết. Nào có biết chết rồi lại đau đớn, đói khát và vất vưởng như thế này đâu!?” Bạn thân mến, nếu bạn chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp cũng xin một lần đọc qua bài này. Cũng gắng cho con mình đọc qua lấy một lượt. Chỉ một việc bé nhỏ, mất chưa đến 15 phút và bạn cũng chẳng tốn kém tiền bạc gì. Thế nhưng 15 phút hôm nay có thế là cứu cánh cho bạn sau này đấy! Trước khi tụng kinh cho người mới mất, ta cần nắm được kiến thức cơ bản về cái chết, thân trung ấm, các cảnh giới….Vâng, mời bạn! Người đời thấy tắt hơi cho là đã chết, nhưng không, tắt hơi chỉ là bước khởi đầu của tiến trình chết. Đây là quá trình xảy ra sau khi một người đã tắt hơi. Tiến trình này được chia làm hai giai đoạn Sự tan rã bên ngoài của Tứ đại và Sự tan rã bên trong của nội tâm. Sự tan rã bên ngoài của Tứ đại Sự tan rã của tứ đại là một điều vô cùng kinh khủng, theo “Tạng thư sống chết” thì Sự tan rã bên ngoài xảy ra khi các giác quan và tứ đại phân tán. Chúng ta thực sự kinh qua điều này như thế nào khi chết ? iều trước tiên chúng ta có thể ý thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế nào. Nếu người đứng xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta không thể nghe ra một lời nào. ây là dấu hiệu nhĩ thức đã ngưng hoạt động. Ta nhìn một vật trước mặt, mà chỉ có thể thấy hình dạng lờ mờ, không rõ chi tiết. ấy là dấu hiệu nhãn thức đã suy. Và việc cũng xảy ra tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các giác quan không còn được cảm nhận một cách trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã. Bốn giai đoạn tan rã kế tiếp đi kèm với sự tan rã của bốn đại Sự tan rã của ịa đại Thân xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ, không còn chút năng lực nào. Không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì. Ta không còn giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như mình đang té xuống, đang nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát. Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát. Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh. Tâm ta giao động, nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào hôn trầm. ấy là những dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại. iều này có nghĩa rằng gió liên hệ đến địa đại đang trở thành ít có khả năng cung cấp một nền tảng cho ý thức và khả năng của thủy đại bây giờ rõ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một hình ảnh chập chờn. Sự tan rã của Thủy đại Chúng ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không còn chút sắc máu; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước. Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh. Khi thọ uẩn phân tán, thì những cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất mãn, cáu tức, và nóng nảy. Một vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong đại dương hay cuốn trôi trong dòng nước lớn. Thủy đại đang tan rã vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn. Sự tan rã của Hỏa đại Miệng và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay tiêu hóa bất cứ thứ gì. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con, bè bạn, hay nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái gì bên ngoài, vì âm thanh và cái thấy lẫn lộn. Kalu Rinpoche viết “ối với người sắp chết, kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái hỏa lò hừng hực, hay toàn thế giới đang bị thiêu đốt”. Hỏa đại đang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm. Sự tan rã của Phong đại Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu chúng ta. Chúng ta khởi sự thở hào hển. Nhưng hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt chúng ta trợn trừng lên, và chúng ta hoàn toàn bất động. Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dã, không biết gì về thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác liên lạc cuối cùng của chúng ta với hoàn cảnh vật lý đang tan mất. Chúng ta khởi sự có những ảo giác và thấy các cảnh tượng Nếu trong đời ta đã tạo nhiều nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những ám ảnh và những giây phút kinh hãi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi chúng ta cố la lên vì kinh hoàng. Nếu chúng ta đã sống đời có lòng tử tế xót thương, thì chúng ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè thân yêu, hoặc những bậc giác ngộ. Với những người đã sống đời lương thiện, thì khi chết có sự an bình thay vì hãi sợ. * Kallu Rinpoche viết “Kinh nghiệm nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong quét sạch toàn thế giới, kể cả chính mình, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”. iều đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập hợp lại trong “gió nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người chết thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Hơi thở vào càng nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu lần lượt tụ lại, gây nên ba hơi thở ra cuối cùng. Rồi thình lình, hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”. Nhưng những bậc thầy Tây Tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có gì chắc chắn, và toàn thể tiến trình này có thể xảy ra rất nhanh… Tụng kinh Cho người mới mất 2. Vào Thân Trung Ấm Khi những giọt nước mắt khóc than cho cái chết của chúng ta rơi trên má người thân, cũng là lúc ta bước vào giai đoạn cuối của tiến trình chết. Ta rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh trong một khoảng thời gian chừng 20 phút. Rồi thình lình ta tỉnh dậy trong trạng thái trung gian giữa cái chết và một tái sanh mới Thân trung ấm. Dân gian gọi là Linh Hồn người chết. Linh hồn của chúng ta trong cõi Trung ấm tái sanh mang một số đặc tính đặc biệt. Nó có đủ tất cả các giác quan. Nó vô cùng nhẹ, sáng suốt và di động. Sự bén nhạy của nó được nói là gấp 7 lần trong đời sống thực. Nó cũng có được một loại thần thông lặt vặt, không được ý thức kiểm soát, nhưng đem lại cho linh hồn người chết khả năng đọc được tâm người khác. Đặc điểm của Thân trung ấm Lúc đầu, linh hồn của ta sẽ có hình dáng giống như thân thể trong đời vừa qua. Hình dáng của nó hoàn hảo không một khuyết điểm và đang ở độ tuổi xuân xanh. Ngay cả khi bạn bị què quặt hay đau ốm trong đời sống, bạn vẫn có được linh hồn toàn hảo trong cõi Trung ấm tái sanh. Một trong những giáo điển cổ của Mật tông Dzogchen cho chúng ta biết rằng Linh hồn người chết có kích cỡ bằng một đứa bé từ 8 đến 10 tuổi. Do năng lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”, linh hồn không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động. Nó có thể đi khắp nơi nó muốn, không bị trở ngại. Vì linh hồn không có cơ sở vật lý nên nó có thể đi xuyên qua tường vách hay núi. Có 2 nơi nó không thể đi qua Tòa kim cang của đức Phật và Thai mẹ. * Linh hồn có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều. Nhưng vì thiếu tinh chất vật lý của cha mẹ, chúng ta không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ta chỉ có chút ánh sáng mờ soi tỏ khoảng không gian ngay trước mặt. Chúng ta có thể thấy những linh hồn khác trong cõi Trung Ấm. Nhưng người sống không thấy chúng ta, ngoại trừ những người đã có thần thông nhờ thiền định. Bởi thế, chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều kẻ đang du hành trong thế giới Trung Ấm. Nghĩa là ta có thể giao tiếp với những kẻ chết trước chúng ta. Do sự có mặt của năm uẩn đang thành hình, nên linh hồn đối với chúng ta dường như chắc thực. Chúng ta vẫn còn cảm thấy nóng lạnh, đau đớn hay những cơn đói cồn cào. Giáo lý Trung Ấm dạy rằng linh hồn sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được đem đốt. Ngoài ra nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng đặc biệt nhân danh nó. Trong trạng thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh. Tư tưởng liên tục trôi qua nhanh và chúng ta có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tục duy trì những mẫu mực thói quen của nó Thói bám víu những kinh nghiệm và thói tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có. Bơ vơ trong cõi trung gian Suốt trong những tuần đầu trong cõi Trung Ấm. Linh hồn người chết có cảm tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một phụ nữ. Hệt như khi ta còn sống. Chúng ta không hề nhận ra rằng mình đã chết. Chúng ta trở về nhà để gặp bà con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết ta có ở đấy. Dù ta cố gắng bao nhiêu, cũng không gì làm cho họ chú ý ta được. Ta bất lực đứng nhìn họ khóc hay ngồi thẩn thờ với cõi lòng tan nát vì cái chết của ta. Ta lại còn cố một cách vô hiệu để xử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn không còn dành cho ta nữa. Những người thân bắt đầu bàn tính chôn cất và chia chác của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn và hằn học “như một con cá quằn quại trên cát nóng”, Tử Thư nói. Nếu hết sức quyến luyến cái xác của mình, thậm chí ta lại còn cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có trường hợp quá khích là Linh hồn người chết có thể lai vãng gần tài sản hay xác của họ hàng tuần. Thậm chí hàng năm hoặc nhiều năm mà vẫn chưa có thể nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi ta thấy mình không có bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước. Hoặc không thấy hình phản chiếu trong gương ta mới vỡ lẽ ra … Và nội một nỗi kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, cũng đủ làm cho ta ngất xỉu. Ý thức mãnh liệt gấp bảy lần khi còn sống Trong cõi Trung Ấm tái sanh. Ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua. Ta ôn lại những kỷ niệm đã từ lâu phai mờ trong ký ức. Ta thăm lại những nơi chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ lên đấy”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau khổ của nó. Nếu ta đã chết một cách an bình, thì trạng thái tâm an bình đó được tái diễn. Nhưng nếu đó là một cái chết vật vã, sự vật vã ấy cũng được tái diễn. Nếu là một cái chết kinh hoàng, sự kinh hoàng đó cũng được tái diễn. Và nên nhớ rằng Mọi sự được tái diễn với một ý thức mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống. Trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại. Tin buồn là nó trở lại theo một cách cô đọng cường liệt, làm cho tâm ta rối bời. Cứ thế, linh hồn người chết một mình lang thang không ngừng qua thế giới Trung Ấm. Cô đơn và kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng Ta tin rằng mình thực có một cái thân vật lý và mình thực sự hiện hữu. Tuy thế, tất cả những kinh nghiệm trong cõi Trung ấm tái sanh này chỉ do tâm ta biến ra. Đều là do nghiệp và những tập quán cũ của ta tái diễn. Phiêu du theo gió Nghiệp Những ngọn gió của tứ đại trở về và như Tulku Urgyen Rinpoche nói “Người ta nghe những âm thanh to lớn của đất, nước, lửa, gió. Có tiếng như núi lở sau lưng ta, hoặc tiếng con sông lớn gầm lên. Hoặc tiếng một khối lửa khổng lồ như hỏa diệm sơn, hoặc tiếng của một trận bão lớn”. Ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này trong bóng tối kinh hoàng. Rồi đột nhiên trước mặt ta mở ra ba cái hố sâu thăm thẳm Trắng, đỏ, đen và “sâu và kinh khủng”. Tử Thư nói đây chính là tâm giận dữ, tham dục và ngu si của ta. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ. Bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu. Bị săn đuổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt. Cứ thế, ta không ngừng bị ngọn gió nghiệp cuốn đi. Ta không thể vin víu vào bất kỳ một căn cứ nào cả. Tử Thư nói “Vào lúc ấy, trận cuồng phong của nghiệp thức kinh hoàng, khó chịu xoáy lên một cách dữ tợn, từ đằng sau sẽ đẩy ngươi tới trước”. Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những hạt nhị hoa bay trước gió. Ta lang thang một cách vô vọng qua cõi Trung Ấm. Bị cơn đói khát dày vò, ta tìm nơi trú ẩn chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một cái xác thân vật lý nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi vào đau khổ. Phán xét Thiện – ác Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc. Cũng như thế giới trung gian có thể chứa đầy những ảnh tượng ác mộng do vọng tưởng chúng ta tạo nên. Nếu bình thường lúc sống, ta có hành động tích cực, thì kinh nghiệm và nhận thức chúng ta trong cõi Trung Ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc. Nếu đời ta tác hại và làm người khác đau khổ thì kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của ta sẽ đầy đau đớn buồn lo. Bởi thế, Tử Thư nói rằng Linh hồn người chết của những người đánh cá, đồ tể, thợ săn đều bị tấn công bởi những hình ảnh ghê rợn của những nạn nhân của họ trước kia. Vài người nghiên cứu kỹ kinh nghiệm cận tử, nhất là khi nghiên cứu những “cuộn phim đời” – Một đặc điểm chung của tất cả mọi người chết đi sống lại – đã tự hỏi “Làm sao tưởng tượng nổi sự kinh khủng của những kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của một nhà độc tài hay của một kẻ chuyên tra tấn? “Cuộn phim đời” cho ta thấy rằng, sau khi ta chết Ta có thể kinh quá tất cả những nỗi đau khổ mà ta đã gieo, trực tiếp hay gián tiếp” . 49 ngày lang thang Linh hồn người chết tồn tại trung bình 49 ngày và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, linh hồn người chết vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua. Bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, đời sống tương lai của bạn dần dần thành hình và trở thành ảnh hưởng chính. Linh hồn chúng ta phải chờ đợi trong thế giới trung gian cho đến khi nào nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. ôi khi tôi nghĩ về Cõi giới này như một thứ hành lang chuyển tiếp, trong đó linh hồn người đã chết có thể chờ đợi đến 49 ngày trước khi chuyển sang đời sống mới. Nhưng có hai trường hợp đặc biệt không cần phải đợi trong cõi Trung Ấm, bởi tính cách cường liệt của nghiệp lực họ đẩy ngay linh hồn họ vào tái sanh mới. Trường hợp đầu tiên là những người đã sống một đời vô cùng lợi lạc và tích cực, đã tu luyện tâm đến trình độ năng lực chứng ngộ của họ sẽ đưa họ trực tiếp vào một tái sanh tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống cuộc đời tiêu cực, tác hại. Họ đọa lạc rất nhanh xuống đời tái sanh kế tiếp, tới bất cứ ở đâu. Sự phán xét Một vài mô tả về cõi Trung Ấm có nói đến một cảnh xét xử linh hồn Một loại “quay lại cuộn phim đời” giống như sự phán xét sau khi chết ở trong nhiều nền văn hóa của nhân loại. Lương tâm tốt của bạn là một vị thiên thần hộ mạng màu trắng. Nó đóng vai cố vấn bào chữa, kể lại những việc tốt bạn đã làm. Lương tâm xấu của bạn là một con quỷ đen, trình lên vụ án để xét xử. Tốt và xấu được tính thành những hòn sỏi trắng đen. “Thần chết” hay Diêm vương chủ tọa phiên xử. Khi ấy họ soi vào kính nghiệp để làm cuộc phán xét. Màn phán xét này có vài tương đồng với “cuộn phim cuộc đời” ở kinh nghiệm cận tử. Cuối cùng, mọi cuộc phán xét đều xảy ra ngay trong tâm ta. Chúng ta đồng thời là quan tòa và bị cáo. Raymond Moody nói “iều đáng chú ý là sự phán xét không phải đến từ nơi thực thể ánh sáng mà lại đến từ cá nhân người bị xét xử”.Tư duy về đời sau Cảnh phán xét thiện ác linh hồn cũng chứng tỏ rằng trong sự phân tích tối hậu Chính cái động lực sau mọi hành động của chúng ta mới là điều quan trọng. Chúng ta không thể thoát khỏi hậu quả của những hành động, lời nói và ý nghĩ của ta. iều này có nghĩa chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm không những về cuộc đời hiện tại, mà cả những đời tương lai của ta nữa. Năng lực siêu việt Vì trong cảnh giới Trung Ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy. Vậy nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên Tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng và năng lực ghê gớm. Vì không có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tưởng trở thành thực tại. Hãy tưởng tượng sự buồn bã giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài. Hoặc bà con tham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta. Hoặc bạn bè mà ta rất yêu mến bây giờ đang nói về ta một cách khinh miệt. Một tình huống như vậy có thể rất nguy hiểm. Vì phản ứng bạo hành của ta có thể đưa linh hồn ta thẳng đến một tái sanh bất hạnh. Như vậy, năng lực mãnh liệt của tâm ta là vấn đề then chốt trong Trung Ấm tái sanh. Cái giai đoạn cao điểm này hoàn toàn phơi bày chúng ta ra giữa những thói quen và khuynh hướng cố hữu mà ta đã để cho tăng trưởng và thống trị đời ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi sống. Nếu bạn không ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn. Trong Trung Ấm tái sanh linh hồn của bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Ranh giới giữa Giải thoát – Đọa lạc Một sự giận dữ nhỏ nhặt trong trạng thái Trung Ấm cũng có thể có một ảnh hưởng tai hại. Bởi thế mà theo truyền thống, người đọc Tử Thư cho bạn lúc sắp chết phải là một người mà bạn có quan hệ tốt đẹp. Nếu không, nội một việc nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành. Điều này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại cho linh hồn người đã chết. Giáo lý cho ta thấy nhiều mô tả về tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng thái Trung Ấm Tâm ta lúc ấy giống như một thỏi sắt nung đỏ, sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào bạn muốn. Bất cứ hình dáng gì nó được uốn nắn, nó sẽ mau chóng thành hình y như vậy. Một tư tưởng tích cực duy nhất trong trạng thái Trung Ấm có thể trực tiếp dẫn đến giác ngộ. Một phản ứng tiêu cực duy nhất có thể làm bạn chìm vào đau khổ lâu dài. Tử thư cảnh cáo chúng ta một cách mạnh mẽ như sau ến đây là ngã rẽ đôi đường lên cao và xuống thấp Đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười biếng một chút ngươi cũng đủ chịu khổ miên viễn. Đây là lúc mà chỉ cần tập trung một chút ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hãy chú tâm không tán loạn, hãy nỗ lực kéo dài hậu quả thiện nghiệp ! Sẽ siêu thoát nếu như… Trong Trung Ấm tái sanh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ đến các vị Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cõi ấy bằng năng lực tâm bạn. Và do nhân duyên này, bạn tiến đến giải thoát. Giáo lý Mật tông Tây Tạng này cho ta thấy niệm Phật là vô cùng trọng yếu. Trong cảnh giới này, chỉ cần linh hồn niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật thôi, ngay lập tức sẽ vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Giáo lý kỳ đặc này xác quyết một sự thật hiển nhiên về Bản Nguyện Niệm Phật Bạn niệm Phật là chắc chắn được vãng sanh – Tuệ Tâm. Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn. Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ý trong Trung Ấm này. Vì điều này vô cùng khó khăn khi tâm ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an. Theo Tạng Thư Sống Chết Tụng kinh Cho người mới mất 3. Thực hành Bạn đọc đến đây ắt đã hiểu được nỗi khổ hải của người thân sau khi chết là như thế thế nào rồi. Giờ là cách ta tìm cách giúp đỡ họ. Theo kinh Địa Tạng, Bồ Tát dạy “Những chúng sinh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một ức Phật, danh hiệu của một Bồ tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả. Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó. Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.” Nên Tụng Kinh gì cho người mới mất Câu trả lời là còn tùy. 1. Nếu người thân của bạn trước khi mất có tu học Phật pháp Bạn phải tụng đọc theo Pháp mà họ từng tu tập, nghĩa là Khin còn sống họ trì chú thì nào thì bạn trì chú ấy. Đừng làm khác đi, nghĩa là họ tụng chú đại bi thì bạn cũng chỉ nên tụng chú Đại Bi, đừng tụng chú khác. Khi còn sống họ tụng kinh gì thì bạn tụng kinh ấy. Nghĩa là họ thường tụng kinh A Di Đà thì bạn chỉ nên tụng kinh A Di Đà, đừng tụng kinh khác. Khi còn sống, họ tu Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh, thì bạn chỉ nên niệm Phật. Sau đó hồi hướng công đức giúp họ được cao đăng Sen Phẩm nơi cõi Cực Lạc. 2. Nếu khi còn sống họ chưa từng biết đến Phật pháp. Trường hợp này chiếm đa số trên thế gian, và để giúp họ một cách tốt nhất thì bạn nên tụng Kinh Địa Tạng. Sức siêu độ vong linh của Kinh Địa Tạng vô địch ở chỗ Vong linh nghe kinh sẽ minh lý tội phước, nhân quả. Nhờ minh lý mà bức màn vô minh che phủ tâm thức của họ được gỡ bỏ. Họ minh lý ắt sẽ phát tâm sám hối tội lỗi của mình. Một niệm sám hối ấy khởi lên ngay lập tức sẽ được sức Bổn Nguyện của Ngài Địa Tạng nhiếp hộ. Nhờ đó sẽ được siêu thoát về các cảnh giới lành. Đa phần sẽ tái sanh lên các cõi trời của chư Thiên. Nếu tái sanh nơi cõi người cũng sẽ vào được nơi tốt lành, lớn lên sẽ gặp duyên học Phật. Như vậy, tụng Kinh Địa Tạng là câu trả lời cho câu hỏi Nên tụng kinh gì cho người mới mất! Cách tụng kinh cho người mới mất Trước khi tụng kinh cho người mới mất, bạn phải khắc cốt ghi tâm điều này Chớ sát sinh trong nhà, dù con trùng con kiến cũng không nên giết chúng. Chỉ nên cúng chay, tuyệt đối không cúng mặn. Tại sao thế? Bởi sát sinh cúng mặn sẽ khiến tội của người mất tăng thêm rất nhiều lần. Người tụng kinh phải ăn chay trường, giữ giới và kiêng ngũ vị tân; Ít nhất là trong bao nhiêu ngày phát nguyện tụng kinh đó phải kiêng cữ. Tại sao thế? Vì nếu bạn ăn mặn tụng kinh sẽ chẳng có cảm ứng gì. Nếu ăn ngũ vị tân thì thân thể hôi hám, chư thiên và hộ pháp không đến hộ trì. Người tụng kinh trước khi tụng tắm rửa sạch sẽ, nếu có gia đình thì trong thời gian tụng kinh nên kiêng quan hệ. Lý của việc này hơi vi tế, nói không được, tốt nhất là nên như thế. Bởi người chết ở trong giai đoạn này vô cùng bơ vơ, khổ sở, đói khát…họ chỉ mong con cháu giúp đỡ mình mà không cách chi báo cho chúng nó biết được! Cho nên khi tụng kinh phải cố gắng tụng cho trọn vẹn cả bộ, đừng hời hợt trì tụng, vong linh biết họ rất đau lòng và dễ khởi tâm sân hận. Một niệm sân hận khởi lên trong cảnh giới Thân Trung Ấm này vô cùng khủng khiếp, nó có thể khiến họ đọa ngay lập tức vào trong ba ác đạo!” Bạn tham khảo thêm Cách tụng kinh tại nhà. * Khởi đầu bạn lau dọn bàn thờ cho sạch sẽ thanh tịnh. Nếu bạn sợ thì thể tham khảo bài viết này cho hết sợ Cách tỉa chân nhang và lau dọn bàn thờ. Mỗi ngày bạn nên cố định thời khóa tụng kinh. Ví như ngày 2 thời sáng tối, buổi sáng bắt đầu từ 6h thì ngày nào cũng phải bắt đầu từ 6h. Chớ nay 6h mai 7h, không tốt đâu, quan trọng lắm đấy. Kinh sách thỉnh về nhà phải cất đặt nơi cao ráo, sạch sẽ, không được vứt bừa bãi, chư Hộ pháp quở thì gay go lắm. Nếu điều kiện chẳng thỉnh được kinh thì tụng bản online cho lành, khỏi phải lo cất đặt cũng tốt. Lễ lạt trên bàn thờ chỉ cần 01 lọ hoa tươi, 01 ly nước sạch, chút ít bánh hoặc trái gọi là. Tuyệt đối không để rượu, vàng mã hay tiền bạc lên bàn thờ. Kiếm 1 cái kệ hoặc bàn, sạch sẽ để đặt kinh lên đó cho dễ nhìn dễ tụng. * Trước khi khai kinh bạn thắp hương, chắp tay quỳ xuống rồi âm thầm triệu thỉnh vong linh bằng cách khấn thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Hôm nay ngày…tháng…năm….Con phát nguyện vì vong linh…vì pháp giới chúng sanh và vì hết thảy các linh hồn oan gia trái chủ của vong linh…mà tụng kinh Địa Tạng. Con cầu nguyện ơn trên Tam Bảo, chư Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Long Thần Hộ Pháp từ bi phóng quang gia hộ, giúp cho vong linh…về nơi đây, cùng với con tụng Kinh Địa Tạng. Nguyện cho hết thảy đồng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật!” Đúng giờ tụng kinh hằng ngày, bạn ngồi hoặc quỳ rồi bắt đầu tụng kinh. Qùy tụng thì công đức lớn hơn nhưng rất khó kham nhẫn. Do đó bạn tùy theo sức của mình mà quỳ hoặc ngồi tụng. Khi tụng xong thì phát nguyện hồi hướng bằng cách đọc như vầy “Nam mô A Di Đà Phật! Con nguyện hồi hướng công đức tụng kinh này cho vong linh….cho pháp giới chúng sanh và cho hết thảy các linh hồn oan gia trái chủ của vong linh. Nguyện cho hết thảy đồng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật”. Hồi hướng xong bạn chắp tay lạy ba lạy rồi lui ra. Cách niệm Phật hồi hướng cho người mới mất Nếu bạn do điều kiện không thể ăn chay để tụng kinh cho người mới mất thì bạn nên niệm Phật. Thực ra niệm Phật là diệu pháp, có thể khiến cho người mới mất được ra khỏi sanh tử luân hồi. So với tụng kinh thì niệm Phật hồi hướng cho người mới mất tốt hơn gấp ngàn lần. Chỉ là, pháp này dễ quá nên hiếm người có thể tin nhận được. Bởi vậy nên chư Tổ thường than “Chúng sanh cang cường khó độ” là như thế! Do đó Nếu bạn do điều kiện không thể ăn chay để tụng kinh cho người mới mất thì bạn nên niệm Phật. Theo Mật giáo thì trong vòng 49 ngày, vong linh thường ở trong cảnh giới Thân trung ấm. Người thân lúc này niệm Phật cho họ tốt hơn nhiều so với tụng kinh. Ở Việt Nam ta đa phần mọi người không biết, cứ tưởng tụng kinh là tốt mà chẳng biết rằng Vong linh trong vòng 49 ngày này nếu thấy con cháu vì mình mà niệm Phật, họ sẽ về nương theo đó mà tu tập. Chỉ cần họ phát tâm niệm Phật 1 câu thôi, sẽ thấy đức A Di Đà cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi ấy vong linh phát một niệm xin quy y là vãng sanh về Cực lạc, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi. Đây là giáo lý của Mật giáo, không phải Tuệ Tâm tôi bịa ra đâu nhé. Như thế, bạn có thể niệm Phật hồi hướng cho người mới mất như sau * 1. Bạn tùy theo sức của mình mà chia thời khóa. Nếu có thời gian thì ngày 2 thời, buổi sáng và buổi tối, mỗi thời niệm Phật 1h . Nên niệm Phật vào một thời gian cố định. Ví như 6h sáng bắt đầu chẳng hạn, thì ngày nào cũng bắt đầu từ 6h sáng; Bạn ngồi trước bàn thờ, nếu nhà chẳng có bàn thờ thì chọn một phòng sạch sẽ, gọn gàng và thanh tịnh. Nếu có hương thì thắp 1 nén, nếu chẳng có thì thôi. 2. Thắp hương xong, bạn âm thầm triệu thỉnh bằng cách khấn thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Hôm nay ngày tháng năm…con vì vong linh tên là…mà phát nguyện niệm hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Con cầu nguyện đức Phật A Di Đà từ bi phóng quang gia hộ cho vong linh…được khai tâm, được về nơi đây, cùng với con niệm hồng danh của Ngài. Nguyện đức Phật từ bi gia bị cho vong linh…nghe được danh hiệu của Ngài và phát tâm niệm danh hiệu của Ngài. Nam mô A Di Đà Phật”. Khấn như thế xong thì bạn tụng nghi thức này Nghi thức niệm Phật. * 3. Tụng xong nghi thức ấy, bạn ngồi niệm Phật thêm khoảng 1h. Niệm Phật xong thì hồi hướng như thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Con nguyện hồi hướng công đức niệm Phật này cho hương linh tên là…và Pháp giới chúng sanh. Con cầu nguyện đức từ Phụ phóng quang gia hộ cho tất cả cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Nam mô A Di Đà Phật” Cách này dành cho người không có điều kiện để ăn chay. Tuy thế, nếu không ăn chay được thì cũng phải kiêng Ngũ vị tân, giữ các giới sát đạo dâm vọng… Thường thì trong vòng 49 ngày vong linh phát tâm niệm Phật theo bạn thì sẽ được vãng sanh; nếu chẳng chịu niệm Phật thì cũng nhờ phước đức vô lậu nơi danh hiệu Phật, sẽ được vãng sanh về các cõi lành. Cách tụng kinh cho người mới mất Tuệ Tâm 2021.
Tóm tắt Kinh Cầu Siêu A Di Đà Kinh Tụng - Nghe nhạc hay online mới nhất chất lượng cao Bạn đang xem Top 6 bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 mới nhất 2021 2. Kinh Cầu Siêu - Thầy Thích Huệ Duyên - Zing MP3 Tác giả Đánh giá 3 ⭐ 51385 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 3 ⭐ Tóm tắt Nghe nhạc miễn phí - Tải nhạc chất lượng cao 3. SÁM CẦU SIÊU - THICH TRI THOAT - Zing MP3 Tác giả Đánh giá 4 ⭐ 51281 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 2 ⭐ Tóm tắt Nghe nhạc miễn phí - Tải nhạc chất lượng cao 4. Cha mẹ mất tụng kinh gì để cầu siêu? - Tác giả Đánh giá 4 ⭐ 43096 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 2 ⭐ Tóm tắt Khi trong gia đình có người thân mất, thông thường người ta hay phát nguyện tụng Kinh Địa Tạng hoặc Kinh Di Đà hay Kinh Vu Lan Báo Hiếu... Điều này, còn tùy theo căn cơ, sở nguyện và ý thích của những thân nhân trong gia đình. Tác giả Đánh giá 5 ⭐ 11094 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 4 ⭐ Tóm tắt Cầu siêu là một nghi thức tâm linh quan trọng, giúp hương linh thoát khỏi cảnh lang thang vất vưởng, siêu sinh Tịnh độ đồng thời cũng giúp tâm người sống thanh thản và cuộc sống an bình, suôn sẻ. Dưới đây là cách tụng kinh cầu siêu tại nhà mà các Phật tử cần biết. 6. MP3 Thích Trí Huệ 2015 trở về trước Tác giả Đánh giá 5 ⭐ 11035 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 5 ⭐ Tóm tắt Bài viết về MP3 Thích Trí Huệ 2015 trở về trước. Đang cập nhật... Minh AnhAdmin ơi, Mình muốn tìm hiểu về bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì, admin có thể viết bài về chủ đề đó được không ạ? - - hôm nay - -AdminChào bạn nha, Mình đã viết một bài viết về bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì cũng như một chủ đề khá gần giống Top 9 bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì mới nhất 2021, bạn có thể đọc tại đây - - hôm nay - -Xem thêm Thông Tin Mới Về Game Thế Giới Mở Online Pc Hay Và Đáng Chơi Nhất Hiện Nay 2020Quang NguyễnMình có đọc một bài viết về bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 hôm qua nhưng mình quên mất link bài viết. Admin biết link bài đó không ạ? - - hôm nay - -AdminCó phải bạn đang nói đến Top 6 bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 mới nhất 2021 ?
NỘI DUNG BÀI VIẾT Tại sao phải tụng kinh cầu siêu cho người chết? Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Ai mới có đủ sức mạnh để cầu siêu? Cách tụng kinh cầu siêu cho người chết tại nhà Việc tụng kinh cầu siêu cho người chết là một việc làm thể hiện sự tri ân, lòng thành của con cái đối với ông bà cha mẹ tổ tiên. Cầu có nghĩa là cầu nguyện, siêu là siêu thoát. Cầu siêu có nghĩa là cầu nguyện để mong cho linh hồn của người chết sớm được siêu thoát. Nếu còn đang bị đọa đày ở cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì sẽ sớm được giảm nhẹ tội và vãng sinh về nơi Tịnh độ của Phật A Di Đà. Việc tụng kinh cầu siêu cho người chết là một việc làm quan trọng mà các Phật tử nên thực hiện Kinh Phật cho biết rằng, khi con người ở trong trạng thái thân trung ấm thì các vong linh sẽ trở nên vô cùng thông minh, lanh lợi hơn gấp nhiều lần so với lúc họ còn sống. Họ mang trong mình nhiều năng lực, có thể đọc được tâm của người khác. Biết được trong gia đình có thực sự đau buồn hay vui sướng trước cái chết của họ. Vì thần thức quá tinh thông nên nếu như phát hiện ra người thân trong gia đình không quan tâm đến cảnh khổ của họ thì họ lại càng đau lòng. Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Nguồn gốc của việc tụng kinh cầu siêu cho người chết bắt nguồn từ sự tích của Tôn giả Mục Kiền Liên. Trong Kinh có kể lại rằng khi xưa mẹ của Mục Kiền Liên là người không tin vào Tam Bảo nên bà thường phỉ báng chư tăng, sống lãng phí sa hoa, không tiết kiệm. Do đó khi chết đi bà bị đọa đày xuống cõi địa ngục. Tôn giả Mục Kiền Liên khi ấy đã dùng phép thần thông của mình để soi khắp các cõi trời đất mới tìm thấy được mẹ mình. Khi biết được mẹ mình đang phải chịu sự thống khổ nơi địa ngục, ngài đã đến cầu xin Đức Phật để tìm cách cứu mẹ. Đức Phật nói rằng nhân dịp chư Tăng sau 3 tháng an cư tịnh tiên tu tập 3 phần giới, định, tuệ, tích lũy đầy đủ công đức nên cúng dường với tâm thanh tịnh để chư Tăng chú nguyện vào phẩm vật cúng dường. Mục Kiền Liên làm theo lời Phật dạy và đã thành công cứu được mẹ mình thoát khỏi địa ngục. Nguồn gốc của việc tụng kinh cầu siêu cho người chết bắt nguồn từ sự tích của Tôn giả Mục Kiền Liên Kể từ đó nghi thức cầu siêu cho người chết bắt đầu được hình thành. Các Phật tử có lòng hiếu thảo noi theo tấm gương của Mục Kiền Liên để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ sớm được vãng sinh nơi cửa Phật. Chúng ta vốn dĩ không có phép thần thông nên không biết người thân của chúng ta sau khi chết sẽ đọa về đâu. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tụng kinh cầu siêu cho người chết trong thời gian thân trung ấm hoặc vào ngày rằm tháng 7 hàng năm để giúp tăng phước lành hoặc làm giảm nhẹ nghiệp báo của họ. Ai mới có đủ sức mạnh để cầu siêu? Người có đủ sức mạnh để tụng kinh cầu siêu cho người chết chính là các vị chư Tăng sau 3 tháng an cư kiết hạ, thanh tịnh giới phẩm, thành tâm cầu nguyện Phật pháp thì mới có đủ sức mạnh để phá cửa địa ngục, để các tội nhân ở đó được dự lễ cầu siêu vào rằm tháng 7 âm lịch. Đức Phật dạy rằng, trong màu Vu Lan báo hiếu, tất cả chư tăng mang trên mình trọng trách giúp cho các phật tử thực hành và tích lũy công đức để có thể siêu độ cho ông bà cha mẹ của mình. Khi thực hành lễ cầu siêu, trước hết chúng ta nương công đức của vị chư tăng để nguyện cầu cho người thân được siêu thoát. Song chúng ta không thể ỷ lại hoàn toàn trách nhiệm cho chúng Tăng. Các Phật tử là con cháu thì cần có sự kết nối với tâm thức người đã chết. Họ sẽ chỉ liên kết với năng lượng tâm của các bạn, còn các chư Tăng chỉ mở rộng lòng từ, để năng lượng từ bi được trải rộng khắp nơi. 6 ngả luân hồi trong Phật giáo Những người được cầu siêu có hưởng được sự lợi lạc từ những nguồn năng lượng này hay không còn tùy thuộc vào sự kết nối về quan hệ huyết thống với con cháu trong buổi lễ. Chúng ta ngồi đây tụng Kinh cầu siêu tạo nên nguồn năng lượng tích cực bằng cái tâm thành kính. Bởi công đức tụng kinh, mỗi câu niệm Phật tạo nên trong không gian nguồn năng lực rất an lành. Cách tụng kinh cầu siêu cho người chết tại nhà Dưới đây là bài kinh cầu siêu cho người chết mà các Phật tử có thể tham khảo Niệm hương lễ bái Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm Tịnh pháp – giới chơn – ngôn Án lam xóa ha. 3 lần Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lần Cúng hương Thắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới, Cúng dường nhứt-thế Phật, Tôn pháp chư Bồ tát, Vô biên Thanh văn chúng, Cập nhứt thế Thánh-Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật-sự, Phổ huân chư chúng-sanh, Giai phát Bồ-ề tâm, Viễn-ly chư vọng-nghiệp, Viên-thành vô-thượng đạo. Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện Kỳ nguyện Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc. Tán phật Pháp vương vô-thượng tôn Tam-giới vô luân thất Thiên nhơn chi ạo-sư Tứ-sanh chi từ-phụ Ư nhứt niệm quy-y Năng diệt tam-kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán-thán Ức kiếp mạc năng tận. ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn Quán tưởng Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như ế-châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, ầu diện tiếp túc quy mạng lễ. – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạy ứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng Tán lư hương Lư hương sạ nhiệt, Pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân. Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần Chú đại bi Nam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lần Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa. Kinh A Di Đà NAM-MÔ LIÊN-TRÌ HẢI-HỘI PHẬT BỒ-TÁT. 3 lần PHẬT THUYẾT A-DI-À KINH Như thị ngã văn Nhứt thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dữ đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thức Trưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-dà, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng câu. Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp”. Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành; thượng hữu, lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hườn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang-nghiêm. Phục thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-Lợi-Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở tác. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức trang-nghiêm. Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à? Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-à. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à. Xá-Lợi-Phất! A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức trang-nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết. Xá-Lợi-Phất! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt xứ. Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc quốc-độ. Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi lợi. ông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! “Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”? Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi pháp. Xá-Lợi-Phất! ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan. Quảng cáo Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ. Phật thuyết A-Di-à kinh. A Di Đà Phật tán Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên thành. Chí tâm đảnh lễ Mỗi câu đều đọc 1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai. 2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai. 3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai. 4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang Như-Lai. 5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai. 6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai. 7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai. 8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai. 9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai. 10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang Như-Lai. 11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai. 12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai. Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lần Vãng sanh quyết định chơn ngôn Nam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. Tán Phật A-Di-à Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải. Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à Phật. Nam-mô A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ý Nam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lần Nam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lần Sám thập phương Thập phương Tam-thế Phật A-Di-à đệ nhứt, Cửu phẩm độ chúng-sanh Oai-đức vô cùng cực, Ngã kim đại quy-y. Sám-hối tam nghiệp tội, Phàm hữu chư phước thiện, Chí tâm dụng hồi-hướng. Nguyện đồng niệm Phật nhơn, Cảm ứng tùy thời hiện, Lâm chung Tây-phương cảnh, Phân-minh tại mục tiền, Kiến văn giai tinh tấn, ồng sanh Cực-lạc quốc, Kiến Phật liễu sanh-tử, Như Phật-độ nhứt-thiết, Vô-biên phiền-não đoạn, Vô-lượng pháp môn tu; Thệ nguyện độ chúng-sanh, Tổng giai thành Phật đạo; Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí. Mười đại nguyện Quỳ đọc ệ-tử chúng đẳng Tùy-thuận tu tập Phổ-Hiền Bồ-tát Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như-Lai, Tam giả quảng tu cúng-dường, Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng, Ngũ giả tùy-hỷ công-đức, Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân, Thất giả thỉnh Phật trụ thế, Bát giả thường tùy Phật học, Cửu giả hằng thuận chúng-sanh, Thập giả phổ giai hồi-hướng. Hồi hướng Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi-hướng, Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh, Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát. Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não, Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công-đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng-sanh, Giai cộng thành Phật-đạo. Thượng lai Vị chủ lễ xướng một mình như sau ệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sanh Tịnh-độ. Phục nguyện Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc. Phổ nguyện Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo. Nam-mô A-Di-à Phật. ồng niệm Tam quy y Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạy Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạy Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạy Xem thêm Tìm hiểu về tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả trong đạo Phật
Bài kinh cầu siêu cho người chết được chia sẻ tại Wikichiase. Tụng kinh cho người đã mất đã trở thành phong tục quen thuộc của rất nhiều gia đình Việt Nam. Với mong muốn người đã mất có thể siêu thoát, không còn vấn vương chốn trần thế, yên tâm hưởng lạc ở cõi vĩnh hằng. Gia đình của người đã mất luôn tìm kiếm những bài kinh cầu siêu cho người chết, và đọc nó trong suốt 49 ngày đầu tiên tính từ thời điểm người thân qua đời. Mặc dù khoa học tân tiến chưa chứng tỏ được tính hiệu suất cao của bài kinh cầu siêu cho người đã chết ; nhưng so với những người con sống thì đây là phương pháp biểu lộ sự chu toàn cho người đã mất ; giúp họ ra đi thanh thản và niềm hạnh phúc. Thông thường, bài kinh cầu siêu cho người đã chết được sử dụng liên tục trong vòng 49 ngày tiên phong tính từ thời gian người thân trong gia đình qua đời . Nhưng có rất nhiều mái ấm gia đình duy trì việc tụng kinh này cho đến hết 100 ngày . Dưới đây là bài kinh cầu siêu cho người chết được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Cách tụng kinh cho người chết tại nhà được xem là dễ thực hiện, mất ít thời gian, và người nhà có thể trực tiếp làm công việc này. Cầu siêu là gì? Trước khi tìm hiểu và khám phá nội dung bài kinh cầu siêu cho người chết, quý vị cần hiểu rõ hoạt động giải trí cầu siêu là gì. Nó được thực thi như thế nào và lê dài trong thời hạn bao lâu. Cầu siêu là khấn cầu mong cho người đã mất được siêu thoát, sớm đầu thai hay được về với chư Phật. Đối với phật giáo bắc tông do chịu nhiều ảnh hưởng tác động của pháp môn Tịnh Độ nên những bài kinh được đọc tụng ở những đám tang lễ hầu hết là kinh a di đà, kinh địa tạng và vu lan . Bài kinh cầu siêu người chết là gì? Bài kinh cầu siêu người chết hay như kinh siêu độ cho người chết để vong linh của hộ nhất tâm bất loạn để linh hồn khai tâm theo đó niệm phật và vãng sinh. Theo phật bắc tông đọc kinh Địa Tạng là nhằm mục đích nhớ lại đức hiếu thảo của vì bồ tát này. Đọc kinh Vu – Lan để học hỏi ngài Mục kiền liên về tấm gương báo hiếu của người . Bài kinh cầu siêu người chết không phải là bài kinh chỉ là sự giải thoát của ai với ai. Bởi theo Phật Giáo không ai hoàn toàn có thể giải thoát hay siêu độ cho ai. Sự cầu nguyện chỉ thực sự mang đặc thù hình tượng, tấm lòng của người sống so với người đã mất. Nhưng so với phương diện khác dành cho người đã mất. Bài kinh cầu siêu giúp họ hiểu được việc không nên quyến luyến chốn trần gian. Hãy thuận tiện buông tay để được đầu thai chuyển kiếp . Vì sao phải đọc bài kinh cầu siêu cho người chết? Nghi lễ cầu siêu không chỉ là tốt cho người mất mà còn là một việc tốt đẹp để con cháu trong mái ấm gia đình nhớ đến ân tình, công sinh thành, dưỡng giáo của ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Nếu là như vậy thì có thiết yếu phải đọc bài kinh cầu siêu người chết hay không ? Câu vấn đáp là nên tụng kinh cầu siêu cho người mất nhé. Đặc biệt nên tụng liên tục kinh cầu siêu cho đến 49 ngày của người mất . 49 ngày của người mất thật sự là tiến trình quan trọng. Hay còn được gọi là 49 ngày phán quyết, quyết định hành động tái sinh về cảnh giới nào. Thực hiện cầu siêu trong thời hạn này để nhắc nhở vong linh người chết nên hướng thiện tâm, những tư tưởng tốt đẹp, để thức tỉnh thần thức sẽ được tái sinh về nơi tốt đẹp . Ngoài ra, bài kinh cầu siêu người chết còn có mục tiêu giúp vong linh người mất sám hội, ngẫm lại tội lỗi của mình, đồng cảm và gật đầu buông bỏ đau khổ, rời xa quả báo, thoát khỏi cảnh giới tối tăm đọa đày đau khổ. Việc này sẽ giúp cho thần thức vong linh người mất được thảnh thơi, tịnh lạc, mau chóng bước vào luân hồi, chuyển kiếp . Bài kinh cầu siêu cho người chết hầu hết gồm 3 bài kinh tụng. Nhưng để nghi lễ cầu siêu được thực thi một cách khá đầy đủ, chỉnh chu sẽ được thực thi theo trình tự như sau Cúng hương thực hiện thắp 3 nén nhang, cầm nhang ngang trán, quỳ thẳng và niệm bài cúng hương. Sau đó chủ lễ thực hiện làm lễ xá 3 cái rồi cắm hương vào bát hương Tiếp đến đọc tán phật, quán tưởng. Chú ý kết thúc đọc mỗi phần phải xá lạy 1 cái Đọc bài đảnh lễ tiếp đến trì tụng. Đại chúng tức những người ngồi theo tụng cùng tụng theo chủ l đề Tán lư hương đọc 3 lần Tụng kinh niệm chú đại bi, phát nguyện trì kinh Bắt đầu đọc kinh cầu siêu từ khai kinh đến phật nói kinh A Di Đà Niệm kinh maha Bát nhã ba-la mật đa tâm – kinh rồi đến vãng sanh chơn ngôn, tán phật Đọc thần chú thất phật diệt tội, phục nguyện và hồi hướng Sau cùng là tự quy và đảnh lễ cúi lạy Tam bảo thường trụ mười phương. Kết thúc bước này là kết thúc nghi lễ cầu siêu Việc cầu siêu nên được thực thi vừa đủ và theo hướng dẫn đơn cử chỉ tiết của những vị sư thầy, tăng ni phật tử đã có nhiều kinh nghiệm tay nghề đi cúng và đọc bài kinh cầu siêu người chết . Đọc bài kinh cầu siêu cho người chết là tín ngưỡng, truyền thống cuội nguồn truyền kiếp. Là nghi lễ cần phải được triển khai. Bảy, bảy, bốn chín ngày là thời hạn quan trọng so với vong linh người mất để vong linh họ được khai thông, đồng cảm sự luân hồi, buông bỏ oán niệm, suy ngẫm những hành vi sai lầm của mình để việc tái sinh được thuận tiện, hanh thông . Vậy nên dù đã trải qua 49 ngày thì việc liên tục đọc bài kinh cầu siêu người chết vẫn rất tốt và hoàn toàn có thể niệm thêm kinh phật để được an nhàn, đời sau con cháu cũng được an nhàn. Rộng hơn hoàn toàn có thể khiến những chúng sinh cùng nghe để thuận theo phật đạo. Ngoài ra nó còn bộc lộ tấm lòng thiện nguyện, vị tha của chủ lễ cùng những phật tử . Nội dung bài kinh cầu siêu cho người chết tại nhà Dưới đây là bài kinh cầu siêu cho người chết mà những Phật tử hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm Niệm hương lễ bái Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm Tịnh pháp – giới chơn – ngôn Án lam xóa ha. 3 lần Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lần Cúng hương Thắp ba cây hương, quỳ ngay thật, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương Nguyện thử diệu hương vân , Biến mãn thập phương giới , Cúng dường nhứt-thế Phật , Tôn pháp chư Bồ tát , Vô biên Thanh văn chúng , Cập nhứt thế Thánh-Hiền , Duyên khởi quang minh đài , Xứng tánh tác Phật-sự , Phổ huân chư chúng-sanh , Giai phát Bồ-ề tâm , Viễn-ly chư vọng-nghiệp , Viên-thành vô-thượng đạo . Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện Kỳ nguyện Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh … .. pháp-danh … .. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc . Tán phật Pháp vương vô-thượng tôn Tam-giới vô luân thất Thiên nhơn chi ạo-sư Tứ-sanh chi từ-phụ Ư nhứt niệm quy-y Năng diệt tam-kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán-thán Ức kiếp mạc năng tận . ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn Quán tưởng Năng lễ, sở lễ tánh không tịch , Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì , Ngã thử đạo tràng như ế-châu , Thập phương chư Phật ảnh hiện trung , Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền , ầu diện tiếp túc quy mạng lễ . – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạy ứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng Tán lư hương Lư hương sạ nhiệt , Pháp giới mông huân , Chư Phật hải hội tất diêu văn , Tùy xứ kiết tường vân , Thành ý phương ân , Chư Phật hiện body toàn thân . Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần Chú đại bi Nam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni . Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa . Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha . Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra . Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha . Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da . Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha . Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lần Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp , Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ , Ngã kim kiến văn đắc thọ trì , Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa . Kinh A Di Đà Nam-mô liên-trì hải-hội phật bồ-tát. 3 lần Phật thuyết a-di-à kinh Như thị ngã văn Nhứt thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dữ đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thức Trưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-dà, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát ; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng câu . Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “ Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp ” . Xá-Lợi-Phất ! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc ? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất ! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc . Hựu Xá-Lợi-Phất ! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành ; thượng hữu, lâu những, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết . Xá-Lợi-Phất ! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm . Hựu Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, những dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hườn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành . Xá-Lợi-Phất ! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang-nghiêm . Phục thứ Xá-Lợi-Phất ! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng . Xá-Lợi-Phất ! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà ? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất ! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở tác . Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất ! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức trang-nghiêm . Xá-Lợi-Phất ! Ư nhữ ý vân hà ? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à ? Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-à . Hựu Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à . Xá-Lợi-Phất ! A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp . Hựu Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri ; chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị . Xá-Lợi-Phất ! Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức trang-nghiêm . Hựu Xá-Lợi-Phất ! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết . Xá-Lợi-Phất ! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà ? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt xứ . Xá-Lợi-Phất ! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc . Xá-Lợi-Phất ! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc quốc-độ . Xá-Lợi-Phất ! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ . Xá-Lợi-Phất ! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi lợi . ông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật ; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, những ư kỳ quốc, xuất trung tâm vui chơi quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “ Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh ” . Xá-Lợi-Phất ! “ Ư nhữ ý vân hà ? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh ” ? Xá-Lợi-Phất ! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất ! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết . Xá-Lợi-Phất ! Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh . Thị cố Xá-Lợi-Phất ! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ . Xá-Lợi-Phất ! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “ Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế ; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi pháp . Xá-Lợi-Phất ! ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan . Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ. Phật thuyết A-Di-à kinh . A Di Đà Phật tán Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên thành . Chí tâm đảnh lễ Mỗi câu đều đọc 1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai . 2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai . 3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai . 4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang Như-Lai . 5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai . 6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai . 7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai . 8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai . 9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai . 10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang Như-Lai . 11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai . 12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai . Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách . Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị . Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận ; vô khổ, tập, diệt, đạo ; vô trí diệc vô đắc . Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại ; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề . Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư . Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lần Vãng sanh quyết định hành động chơn ngôn Nam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ tha . A di rị đô bà tỳ , A di rị đa tất đam bà tỳ , A di rị đa tì ca lan đế , A di rị đa, tì ca lan đa , Dà di nị dà dà na , Chỉ đa ca lệ ta bà ha . Tán Phật A-Di-à Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải . Quang trung hóa Phật vô số ức , Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn . Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à Phật . Nam-mô A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ý Nam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lần Nam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lần Sám thập phương Thập phương Tam-thế Phật A-Di-à đệ nhứt , Cửu phẩm độ chúng-sanh Oai-đức vô cùng cực , Ngã kim đại quy-y . Sám-hối tam nghiệp tội , Phàm hữu chư phước thiện , Chí tâm dụng hồi-hướng . Nguyện đồng niệm Phật nhơn , Cảm ứng tùy thời hiện , Lâm chung Tây-phương cảnh , Phân-minh tại mục tiền , Kiến văn giai tinh tấn , ồng sanh Cực-lạc quốc , Kiến Phật liễu sanh-tử , Như Phật-độ nhứt-thiết , Vô-biên phiền-não đoạn , Vô-lượng pháp môn tu ; Thệ nguyện độ chúng-sanh , Tổng giai thành Phật đạo ; Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng , Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng , Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí . Mười đại nguyện Quỳ đọc ệ-tử chúng đẳng Tùy-thuận tu tập Phổ-Hiền Bồ-tát Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật , Nhị giả xưng tán Như-Lai , Tam giả quảng tu cúng-dường , Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng , Ngũ giả tùy-hỷ công-đức , Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân , Thất giả thỉnh Phật trụ thế , Bát giả thường tùy Phật học , Cửu giả hằng thuận chúng-sanh , Thập giả phổ giai hồi-hướng . Hồi hướng Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh , Vô biên thắng phước giai hồi-hướng , Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh , Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát . Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não , Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu , Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ . Thế thế thường hành Bồ-tát đạo . Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung , Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu , Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh , Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ . Nguyện dĩ thử công-đức , Phổ cập ư nhứt thiết , Ngã đẳng dữ chúng-sanh , Giai cộng thành Phật-đạo . Thượng lai Vị chủ lễ xướng một mình như sau ệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh … .. Pháp danh … .. tốc xả mê-đồ, siêu sanh Tịnh-độ . Phục nguyện Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc . Phổ nguyện Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo . Nam-mô A-Di-à Phật . ồng niệm Tam quy y Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạy Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, xâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạy Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạy Khác với những bài kinh tụng trong đám tang thường sẽ do thầy cúng hoặc sư thầy đọc ; bài kinh cầu siêu cho người chết hoàn toàn có thể do chính mái ấm gia đình của người đã mất tụng đọc. Miễn sao, khi đọc kinh cầu siêu họ biểu lộ được sự thành tâm cầu nguyện với bề trên ; mong cho người thân trong gia đình đã mất của họ được ra đi thanh thản, nhẹ nhàng và sớm được siêu thoát . Nhiều người cho rằng, bài kinh cầu siêu cho người đã mất nên để người thân trong nhà đọc tụng, như thế sẽ thể hiện được tâm ý chân thành hơn. Chính thân nhân của người đã khuất trong quá trình tụng kinh cầu siêu cũng cảm thấy tâm hồn của mình được nhẹ nhàng hơn, và đồng thời cũng là đang tự cầu siêu cho chính mình sau này. Tụng kinh cầu siêu cho người đã mất đã trở nên quá đỗi quen thuộc so với phong tục người Việt khi trong mái ấm gia đình có người mất. Khi đã hiểu được ý nghĩa, sự quan trọng và giá trị tâm linh mà những bài kinh cầu siêu cho người đã chết mang lại, chắc như đinh trong mỗi tất cả chúng ta đều muốn khám phá bài kinh này . Xẹm thêm
Tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất là điều nên làm, giúp họ nhanh chóng siêu thoát về miền cực lạc. Kinh cầu siêu thường được đọc trong 49 ngày đầu tiên sau khi một người rời khỏi trần thế. Hiện nay, kinh cầu siêu đã có bản mẫu sẵn, người đọc thực hiện dễ dàng, không tiêu tốn nhiều thời gian, nếu rảnh thì có thể tự làm và không cần nhờ đến sự hỗ trợ của tăng Giải đáp cầu siêu là gì?Cầu siêu là gì? Theo lý thuyết nhà Phật, cầu siêu là những lời thỉnh cầu của người thân người đã khuất với mong muốn người đã khuất nhanh chóng giác ngộ, sớm được siêu thoát, quy về nơi cửa Phật hoặc được đầu thai thành kiếp người khác. Các loại kinh được sử dụng phổ biến trong lễ cầu siêu gồm có kinh a di đà, kinh địa tạng và vu thực hiện các nghi lễ cầu siêu, linh hồn người chết sẽ hộ nhất tâm, không còn bấn loạn, không còn vấn vương nơi trần thế, linh hồn sẽ được khai tâm mở nhãn, nhanh chóng vãn kinh cầu siêu sở dĩ ngày càng được sử dụng phổ biến bởi theo nhiều người quan niệm đó không chỉ là giải thoát, là hướng dẫn lối cho người đã khuất mà nó còn là hiệu ứng giúp cho người sống tâm hồn thanh thản hơn, nhiều người vì có quá nhiều tiếc thương với người đã khuất, hoặc có nhiều việc chưa thực hiện được thường nuối tiếc mãi không cầu siêu diễn ra theo tâm thế nhà Phật, phải đạo và thuận với thiên lý. Đây chỉ là hình thức mang ý nghĩa tôn giáo, thể hiện tấm lòng của người còn sống đối với người đã khuất. Trong khoa học thì không có chứng minh hay nhận định gì về vấn đề này Nghi thức cầu siêu bắt nguồn từ đâu?Sở dĩ việc cầu siêu ngày một phổ biến hơn tại Việt Nam được cho là bắt nguồn từ tấm gương hiếu thảo của Đức Mục Kiền Liên. Ngài vì muốn báo hiếu cha mẹ đã dùng thần thông để soi khắp trời đất tìm ra nơi cha mẹ mình vãng sanh. Nhờ đó, người đã tìm thấy mẹ mình đang phải chịu khổ ở nơi địa ngục. Chứng kiến mẹ ngày một bị đọa đày bởi các hình phạt đau đớn, khó chịu, ngài không cầm được nước mắt đã đến xin thỉnh Phật giúp đỡ. Đức Phật cho lời khuyên ngài nên về tìm cách niệm kinh, giúp mẹ nhanh chóng trả hết những nghiệp kiếp đang gánh chịu mới mong được đầu thai chuyển ba tháng an cư, tịnh tiến tu tập ba phần giới, Đức Mục Kiền Liên đã cứu được mẹ thoát tội địa ngục. Đây cũng chính là căn nguyên để người đời hiện nay tin rằng việc cầu siêu có tác dụng lớn, giúp cho người đã khuất nhanh chóng tìm ra lối đi, sớm ngày tu thế chuyển từ đó ghi chép đó trong kinh Phật, dần dần chúng ta bắt đầu hình thành việc cầu siêu, một người rồi nhiều người làm theo, thể hiện tấm lòng hiếu thảo của con cháu đối với các bậc ông bà bố kinh cầu siêu cho người đã mất hàng ngày ngoài mong ước người đã khuất sớm an nghỉ, linh hồn sớm được đầu thai chuyển kiếp thì đây còn là một nghi lễ tốt đẹp để con cháu tưởng nhớ, dành thời gian tiễn đưa và giúp đỡ ông bà bố mẹ những chặng đường cuối cùng. Kinh cầu siêu giúp tâm người còn sống an, người đã khuất ra đi thanh thản. Như vậy thì bạn nghĩ có nên đọc kinh cầu siêu hàng ngày hay khôngChắc chắn bạn đã có câu trả lời, điều này cũng lý giải tại sao có càng nhiều người lựa chọn tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất trong vòng 49 ngày sau khi người đó lìa trần. Thậm chí nhiều gia đình còn mời cả tăng ni về giúp đỡ, với mong ước người thân sẽ an yên tại miền cực Nghi thức cần biết khi tụng kinh cầu siêu cho người đã khuấtKinh cầu siêu cho người đã khuất không phải cứ đọc là có tác dụng, cần phải biết tụng kinh theo đúng nghi thức nhà Phật. Nghi lễ cầu siêu được mô tả bài bản như sauCúng hương Thực hiện thủ tục thắp 3 nén nhang thơm, quỳ trên chiếu, lễ vái 3 lần, cắm hương vào kinh Tiến hành đọc các bài kinh cầu siêu cho người đã khuất. Khi kết thúc một nhịp thì lạy một cái. Theo thứ tựĐọc tán phật, quán tưởngĐọc bài đảnh lễĐọc bài trì tụngTán lư hương đọc 3 lầnSau đó có thể tụng kinh niệm chú đại bi, phát nguyện trì kinhViệc cầu siêu nên được thực hiện đầy đủ đúng theo trình tự, nếu không có kiến thức thì bạn nên tham khảo các vị thiền sư, ni cô tại chùa để được hướng dẫn cụ khi đã trải qua 49 ngày, việc đọc kinh cầu siêu nếu có điều kiện thì nên tiếp tục đọc hàng ngày đến 100 ngày, đến giỗ Nội dung kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngàyKhoa học thì không có chứng minh về việc đọc kinh cầu siêu cho người đã khuất. Tuy nhiên nhìn theo góc độ tâm linh thì đây là việc nên làm và cực kỳ cần thiết để giúp người chết ra đi thanh thản hơn, người sống bình tâm, gia tăng tính tích lũy thiện nguyện. Bài kinh cầu siêu thường được đọc cho người đã khuất quý vị có thể tham khảoNiệm hương lễ báiThắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệmTịnh pháp – giới chơn – ngônÁn lam xóa ha. 3 lầnTịnh tam – nghiệp chơn – ngônÁn ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lầnCúng hươngThắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hươngNguyện thử diệu hương vân,Biến mãn thập phương giới,Cúng dường nhứt-thế Phật,Tôn pháp chư Bồ tát,Vô biên Thanh văn chúng,Cập nhứt thế Thánh-Hiền,Duyên khởi quang minh đài,Xứng tánh tác Phật-sự,Phổ huân chư chúng-sanh,Giai phát Bồ-ề tâm,Viễn-ly chư vọng-nghiệp,Viên-thành vô-thượng đạo.Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyệnKỳ nguyệnTư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc phậtPháp vương vô-thượng tônTam-giới vô luân thấtThiên nhơn chi ạo-sưTứ-sanh chi từ-phụƯ nhứt niệm quy-yNăng diệt tam-kỳ nghiệpXưng dương nhược tán-thánỨc kiếp mạc năng tận.ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớnQuán tưởngNăng lễ, sở lễ tánh không tịch,Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,Ngã thử đạo tràng như ế-châu,Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,ầu diện tiếp túc quy mạng lễ.– Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy– Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy– Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạyứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụngTán lư hươngLư hương sạ nhiệt,Pháp giới mông huân,Chư Phật hải hội tất diêu văn,Tùy xứ kiết tường vân,Thành ý phương ân,Chư Phật hiện toàn Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lầnChú đại biNam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lầnThiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lầnNam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lầnKhai kinh kệVô thượng thậm thâm vi diệu pháp,Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt A Di ĐàNam-mô liên-trì hải-hội phật bồ-tát. 3 lầnPhật thuyết a-di-à kinhNhư thị ngã văn Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dự đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thứcTrưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-già, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp”.Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành; thượng hữu, lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hạn đáo bổn quốc, phạn thực kinh Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à? Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ-tát chúng diệc phục như Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.Xá-Lợi-Phất! “Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”?Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương cố Xá-Lợi-Phất! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi thuyết A-Di-à Di Đà Phật tánTây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên tâm đảnh lễMỗi câu đều đọc1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang ha bát nhã ba la mật đa tâm kinhQuán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viếtYết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lầnVãng sanh quyết định chơn ngônNam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ di rị đô bà tỳ,A di rị đa tất đam bà tỳ,A di rị đa tì ca lan đế,A di rị đa, tì ca lan đa,Dà di nị dà dà na,Chỉ đa ca lệ ta bà PhậtA-Di-à Phật thân kim sắcTướng hảo quang-minh vô đẳng-luânBạch hào uyển-chuyển ngũ tu-diCám mục trừng thanh tứ đại trung hóa Phật vô số ức,Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biênTứ thập bát nguyện độ chúng-sanhCửu phẩm hàm linh đăng bỉ Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ýNam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lầnNam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lầnNam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lầnNam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lầnSám thập phươngThập phương Tam-thế PhậtA-Di-à đệ nhứt,Cửu phẩm độ chúng-sanhOai-đức vô cùng cực,Ngã kim đại tam nghiệp tội,Phàm hữu chư phước thiện,Chí tâm dụng đồng niệm Phật nhơn,Cảm ứng tùy thời hiện,Lâm chung Tây-phương cảnh,Phân-minh tại mục tiền,Kiến văn giai tinh tấn,ồng sanh Cực-lạc quốc,Kiến Phật liễu sanh-tử,Như Phật-độ nhứt-thiết,Vô-biên phiền-não đoạn,Vô-lượng pháp môn tu;Thệ nguyện độ chúng-sanh,Tổng giai thành Phật đạo;Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,Tình dữ vô tình, đồng viên chủng đại nguyệnQuỳ đọcệ-tử chúng đẳngTùy-thuận tu tậpPhổ-Hiền Bồ-tátThập chủng đại nguyệnNhứt giả lễ kính chư Phật,Nhị giả xưng tán Như-Lai,Tam giả quảng tu cúng-dường,Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,Ngũ giả tùy-hỷ công-đức,Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,Thất giả thỉnh Phật trụ thế,Bát giả thường tùy Phật học,Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,Thập giả phổ giai hướngPhúng kinh công-đức thù thắng hạnh,Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,Tốc vãng vô-lượng-quang Phật tiêu tam-chướng trừ phiền-não,Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,Phổ nguyện tội chướng tất tiêu thế thường hành Bồ-tát sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,Bất thối Bồ-tát vi bạn dĩ thử công-đức,Phổ cập ư nhứt thiết,Ngã đẳng dữ chúng-sanh,Giai cộng thành laiVị chủ lễ xướng một mình như sauệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sanh nguyệnNhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm nguyệnÂm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật A-Di-à Phật. ồng niệmTam quy yTự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạyTự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạyTự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạyVới các thông tin trên, chúng tôi đã giải đáp cho bạn đọc tại sao cần đọc kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngày. Chúc quý vị sớm vượt qua nỗi đau khi có người thân ra đi, sớm bình tâm trở lại cuộc sống. Tin rằng người đã mất ở trên cao sẽ mỉm cười, mãn nguyện và sớm siêu thoát bởi những công đức mà bạn đang tu tập hỗ trợ. ✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc ✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn ✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật ✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác ✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin
kinh cầu siêu cho người mới chết